Saturday, March 31, 2012

LỚN CƯỚP KIỂU LỚN, NHỎ CƯỚP KIỂU NHỎ!

Lời của phó chủ tịch xã: Cấp lớn thì lấy đảo, lấy đất gọi là "sở hữu toàn dân" dâng cho Tàu, cho phỉ; cấp nhỏ thì cướp từng miếng vườn, đám ruộng, ngay cả hòn đá của người ta, gọi là "cưỡng chế thu hồi". Mả mẹ nó, cái lũ ác ôn côn đồ còn tệ hơn cả thực dân, đế quốc!  


Huyện, xã đi cưỡng chế mấy hòn đá cảnh



Không hiểu 2 hòn đá đào được trong vườn có giá trị như thế nào mà 2 cấp chính quyền cùng vào cuộc để cưỡng chế thu hồi, khiến cho hàng trăm người dân chứng kiến rất bức xúc.

Việc làm của UBND huyện Chư Sê có hợp tình, hợp lý?

“Tài sản quốc gia” nên thu hồi?

Sáng 29-3, trong lúc hai vợ chồng ông Lê Hùng Dũng (thôn Ia Sa, xã H’bông, huyện Chư Sê, Gia Lai) đang ở nhà thì thấy đoàn cán bộ huyện gồm ông Phó chủ tịch thường trực và ông Chánh văn phòng UBND huyện dẫn theo lực lượng công an ập vào nhà yêu cầu lập văn bản thu hồi 2 hòn đá đang để trong sân. Thế nhưng vợ chồng ông Dũng không chấp nhận việc chính quyền thu hồi 2 cục đá nhà mình.

Hòn đá vô tri vô giác này không rõ có giá trị như thế nào

Trước sự phản đối quyết liệt của vợ chồng ông Dũng, các vị quan huyện phải yêu cầu lực lượng an ninh xã H’bông hỗ trợ, mục đích là cưỡng chế bằng được 2 hòn đá. Ông Chánh văn phòng UBND huyện Bùi Sỹ Nguyên tiến hành lập biên bản với nội dung gia đình ông Dũng đã tàng trữ tài nguyên, khoáng sản không rõ nguồn gốc và cho rằng đây là tài sản quốc gia nên phải thu hồi (?!)

Trước sức ép quá lớn của lực lượng 2 cấp xã, huyện; vợ chồng ông Dũng hoảng sợ nên xuống giọng năn nỉ xin lại một hòn đá để chơi cảnh. Xét thấy vì công sức của vợ chồng ông Dũng bỏ ra khá nhiều mới đào được 2 hòn đá nên các vị quan huyện có vẻ “xuống thang”…thông cảm. Tuy nhiên, biên bản được lập thu hồi 1 hòn đá chỉ có duy nhất một bản, không trích sao bản thứ 2 để gia đình ông giữ làm bằng chứng. Do vậy, ông Dũng đã không đồng ý ký vào biên bản.


Ông Bùi Sỹ Nguyên 3 lần lập biên bản thu hồi 2 hòn đá nhưng không thành

Với sự chỉ đạo trực tiếp của ông Phó chủ tịch thường trực UBND huyện, ông Chánh văn phòng lại một lần nữa lập biên bản thu hồi cả 2 hòn đá với nội dung cho rằng hai hòn đá này là loại khoáng sản không rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, lần này ông Dũng cương quyết phản đối, không ký vào biên bản.

Chỉ khi thấy phóng viên xuất hiện và trước sự phản đối quyết liệt của hàng trăm người dân, việc cưỡng chế, thu hồi 2 hòn đá của 2 cấp chính quyền mới tạm dừng lại, đoàn công tác ra về.

Trao đổi với chúng tôi, ông Dũng cho biết: Gia đình ông có một lô đất với diện tích 7.000m2 tại xã H’bông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2009, trong khi đào ao lấy nước tưới cho cây hồ tiêu, ông Dũng phát hiện 2 khối đá lớn có màu sắc đẹp nên thuê xe kéo về để chơi làm cảnh.

Một số người dân chơi đá cho biết, 2 hòn đá của ông thuộc loại đá casidol – loại đá phong thủy đang được giới chuyên chơi đá săn lùng. Tuy nhiên, vì chất liệu đá còn xấu nên trong suốt 3 năm qua, 2 hòn đá vô tri vô giác của ông Dũng để ngay trong sân nhưng không ai hỏi han, kể cả chính quyền các cấp.

Người dân bức xúc

Trao đổi với chúng tôi, hàng trăm người dân chứng kiến cảnh 2 cấp chính quyền cưỡng chế để thu hồi 2 hòn đá của ông Dũng bức xúc cho rằng: chính quyền làm như vậy là sai nguyên tắc, quan liêu, chèn ép dân quá đáng?

Ông Dũng - chủ nhân hai viên đá bộc bạch: “2 hòn đá này, tôi tìm được trong vườn của gia đình tôi. Không biết đó là loại đá gì, giá trị bao nhiêu, đơn giản vì tôi thấy có màu sắc đẹp nên thuê xe chở về chơi cảnh chứ có mua bán gì đâu! Vậy mà chính quyền 2 cấp lại đưa lực lượng đến thu hồi là việc làm không đáng, cần phải xem xét lại”!


Ông Lê Hùng Dũng phản đối quyết liệt về việc làm của huyện

Riêng ông Phạm Minh Hùng, Trưởng Công an xã H’bông giải thích về việc tham gia cùng lực lượng của huyện thu hồi 2 hòn đá rằng: “Công an xã làm việc này theo sự chỉ đạo của huyện”.

Là Trưởng công an, ông phải chấp hành theo sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã. Ông Hùng cũng thừa nhận: “Đá của dân tìm được đã lâu, nên để cho dân sử dụng trưng bày làm cảnh chứ không nên thu. Bởi hiện nay, người dân chơi đá cảnh rất nhiều nên dân tìm được là để cho dân”.

Được biết, vào tối 28/3 các cấp chính quyền của huyện này cũng đã tiến hành thu hồi một hòn đá khác của hộ gia đình chị Trần Thị Sắc (42 tuổi) trú cùng thôn Ia Sa. Theo chị Sắc, khi gia đình chị đào ao lấy nước tưới hồ tiêu ở khu vườn kế bên vườn nhà ông Dũng thì phát hiện hòn đá cũng gần giống 2 hòn đá nói trên.


Ông Phó chủ tịch thường trực huyện Chư Sê (áo xanh đậm bên trái) dẫn quân đi thu hồi 2 cục đá

Vì thấy hòn đá đẹp nên gia đình đã thuê xe chở về và bị chính quyền huyện tịch thu, đưa về trụ sở UBND huyện. Tuy đã chấp hành, nhưng chị Sắc bức xúc cho rằng, khi đào ao gặp đá, nếu không lấy đá lên thì không thể đào được ao. Và khi đưa được viên đá về nhà, chị đã tốn rất nhiều tiền thuê xe đào, chở… nhưng rồi mất cả đá lẫn tiền.

Vài năm trở lại đây, địa bàn tỉnh Gia Lai đang rộ lên phong trào chơi đá cảnh, đá phong thủy. Xã H’bông là địa bàn được có nhiều đá phong thủy nên giới chơi đá thường về đây để tìm mua. Người dân trong vùng cũng thường xuyên đi đào bới, tìm đá đem về bán, thậm chí có những cơ sở chuyên thu gom đá về để chế tác buôn bán… Tuy nhiên việc này vẫn chưa thấy các cấp chính quyền ngăn cấm.


Tuy giá trị của những viên đá này người dân vẫn chưa rõ, nhưng việc thu hồi của các cấp chính quyền cũng cần có những biện pháp hợp tình, hợp lý hơn!

Friday, March 30, 2012

MỘT THÁNG TƯ - NHỚ TRỊNH CÔNG SƠN



Nhớ Trịnh Công Sơn



Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Mười một năm qua, Trịnh Công Sơn đã đi vào cõi bất tử. Anh chọn ngày cá tháng tư- ngày nói dối toàn thế giới để ra đi. Hóa ra, tin anh đi khỏi cuộc đời này, về thực chất là một tin bịa đặt. Trịnh Công Sơn không bao giờ chết khi các ca khúc tuyệt vời của anh còn sống mãi với dân tộc.


Trịnh Công Sơn là bạn với cả nước. Hỏi có gia đình Việt nào không một lần mê mẩn vì các ca khúc “gây nghiện” của anh... Trong chừng mực ấy, kẻ viết bài này cũng là bạn của Trịnh.


Nhớ cuối năm 1992, ngồi uống café với Trịnh Công Sơn trước Hội Âm nhạc TP.HCM. Anh bảo: “Hảo có thơ gì mới đọc cho mình nghe với?”. Hầu như lần nào gặp nhau, có cơ hội yên lặng là anh hỏi tôi có làm được bài thơ nào mới, đọc cho “moi” nghe chơi! Thơ phú lênh láng một hồi xong, Trịnh Công Sơn bảo: “Mình sắp in một tập nhạc có tựa đề: “Bên đời hiu quạnh”, đã xin được giấy phép, do Hội Âm nhạc thành phố đứng ra in, đây là tập nhạc đầu tiên của mình được phép ra trong chế độ mới ( CS) nên phải cẩn thận. Từng bản nhạc đã được “cơ quan chức năng” duyệt, kể cả lời tựa do bạn mình là Bửu Ý viết. Mình muốn Hảo viết cho mình mấy dòng in trân trọng nơi bìa bốn, đồng ý chứ?”. Tôi hơi bất ngờ, bảo anh: “Anh Sơn này, theo Hảo, anh nên mời anh Nguyễn Quang Sáng hoặc anh Nguyễn Duy, hai bạn nhậu của anh viết cho có phải thú vị hơn không?”. Anh Sơn bảo: “Sáng và Duy có viết về mình mấy bài in báo, nhưng dài quá, không thể trích mấy dòng nơi bìa bốn của tập nhạc được; vậy “moi” mới nhờ Hảo, cũng muốn có một kỷ niệm với Hảo cho vui…”. Tôi đồng ý !



Hai ngày sau tôi chưa kịp viết thì anh Trịnh Xuân Tịnh, người em trai thứ hai của anh Sơn tìm tôi giục, rằng: “Bìa một đã làm, anh Sơn bảo chờ mấy dòng của anh Hảo mới làm tiếp bìa bốn của tập nhạc…”. Tôi ngồi viết ngẫu hứng mấy dòng sau đưa cho anh Tịnh :“Nghệ thuật hi vọng của Trịnh Công Sơn là nghệ thuật băng qua tuyệt vọng, có đi qua lò bát quái của phần số, nhân tính mới còn cơ phát lộ. Trong lò lửa luyện ngục của anh, chúng ta được gặp cái mát lành của tuyết đầu mùa. Anh chỉ ra rằng băng tuyết cũng có thể dùng để sưởi ấm. Anh làm ta tin vào khả năng lặng im của loài quạ. Thực ra thiên chức của nghệ thuật là thức tỉnh nỗi cô đơn cùng tận của con người. Chính cô đơn là hình ảnh tư duy của chàng Hamlet. Chừng như sự chết và hư vô là hai tên gọi khác của nỗi cô đơn? Thức tỉnh nỗi cô đơn, nghệ thuật đồng thời cũng thức tỉnh cả cái chết và niềm hư vô. Âm nhạc của Sơn làm ta có cảm giác vừa rơi lên đỉnh vực nỗi cô đơn. Chỉ có thể đi hết cái tôi, chúng ta mới có cơ gặp cả loài người”- Trần Mạnh Hảo 10-1992 (Bìa bốn, tập nhạc BÊN ĐỜI HIU QUẠNH –TRỊNH CÔNG SƠN -Tình khúc -Nhân Bản 1973-Hội Âm Nhạc TP-Giấy phép xuất bản số 345 ngày 9 tháng 01 năm 1993- In và nộp lưu chiểu tháng 06 năm 1993). 


Bằng thiên tài của mình, quả thực Trịnh Công Sơn đã đi hết nỗi cô đơn kiếp người, đi hết niềm hư vô và đi băng qua cái chết để đến với sự bất tử của anh trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới. Trịnh Công Sơn không chỉ là một hiện tượng âm nhạc hậu bán thế kỷ thứ XX của Việt Nam; anh còn là một hiện tượng văn hóa của dân tộc đau thương và bất hạnh vào bậc nhất của thế giới này. Tuồng như không phải anh cô độc ôm đàn hát lên nỗi niềm day dứt mê ly của mình mà chính là những vết thương của lịch sử đang cất tiếng hát, vết thương của nỗi cô đơn, vết thương của tình yêu, vết thương của bất hạnh và hạnh phúc, vết thương của vô thường, vô ngã, vô vi, vô ưu, vô vọng, vô biên, vô lượng… cùng cất tiếng hát.


Trịnh Công Sơn, chính anh mới là cây đàn của mẹ Việt Nam. Mẹ Việt Nam đã ôm anh vào lòng như bức tranh người đàn ông ôm cây Tây Ban Cầm của Pablo Picasso để hát lên tình yêu và nỗi buồn vô tận của kiếp người. Hay nỗi buồn mượn anh mà hát lên những giai điệu có thể làm “đá ngây ngô” cũng ứa nước mắt ? Hay cỏ cây, mây trời, núi sông, ruộng đồng… đã mượn anh mà hát lên nỗi niềm vạn thưở của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…?


Âm nhạc của Trịnh Công Sơn không chỉ là ma thuật giai điệu hài hòa với phần lời rất thi ca sâu thẳm mà còn là thiền học, triết học cất lời, rót vào tâm hồn người cả nỗi ưu tư của đất trời, những thắc thỏm, u hoài trần thế, những băn khoăn, day dứt, sầu thương, hoài vọng, hoài nghi, hụt hẫng, ngơ ngác nhân sinh. Tôi cho rằng một số nhạc sĩ chê phần nhạc của Trịnh Công Sơn là đều đều, đơn điệu… là vô căn cứ nếu không phải là do đố kị tài năng. Nhạc Trịnh bỏ lời đi, vẫn vô cùng quyến rũ, vẫn làm mê mẩn hàng triệu người. Phần lời của nhạc Trịnh quả tình siêu việt, là thi ca được hát lên. Bằng chứng là rất nhiều bài hát Trịnh Công Sơn được hòa tấu không lời vẫn cứ tuyệt vời, làm thổn thức hàng triệu triệu trái tim người nghe.


Đánh tên Trịnh Công Sơn lên công cụ tìm kiếm Google, sẽ thấy rất nhiều bài báo vu cho Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, là tên văn công hạng bét, là phản bội Việt Nam cộng hòa, nơi đã sản sinh ra thiên tài Trịnh… Ngay cả một người bạn thân của anh Sơn là họa sĩ T.C. cũng cho Trịnh có ý đồ chính trị…Không, Trịnh Công Sơn trước hết là một con người phi chính trị, một văn nghệ sĩ thuần túy. Âm nhạc của anh vượt lên mọi đối kháng chính trị trong suốt cuộc chiến Việt Nam. Nếu Trịnh từng là Việt Cộng nằm vùng, không đời nào năm Mậu Thân 1968, anh lại viết bài hát “Tôi đã thấy”: “Chiều đi lên Bãi Dâu hát trên những xác người…” than khóc cho hàng nghìn người bị quân đỏ tàn sát? Nếu Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, không bao giờ anh viết về cuộc chiến Việt Nam là: “hai mươi năm nội chiến từng ngày”? Nếu Trịnh là Việt Cộng, không bao giờ anh dám viết bài hát (Requiem - Kinh cầu hồn) “Cho một người nằm xuống” là đại tá Lưu Kim Cương bị quân đỏ bắn chết năm Mậu Thân 1968 tại sân bay Tân Sơn Nhất? Nếu Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, sau năm 1975, sinh viên Huế sao lại dám mang nhạc anh ra đấu tố, anh phải đi lao động cải tạo trồng sắn trên núi; và quan trọng hơn là nhạc của anh mấy năm liền vẫn bị cấm hát? Anh phải bỏ Huế vào Sài Gòn sống với mẹ và các em.


Sau năm 1975, tôi có dịp sinh hoạt chi bộ với nhà văn Nguyễn Quang Sáng lúc anh Sáng bắt đầu cặp kè với Trịnh Cộng Sơn như bóng với hình. Chi bộ hỏi anh Sáng về chuyện đó, anh Sáng khai: “Thành ủy và anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) chỉ thị cho tôi bám sát Trịnh Công Sơn để lôi kéo anh ta về phía cách mạng. Trên bảo: nhạc sĩ này là thành phần đáng ngờ, có thể anh ta từng làm việc cho CIA, cần phải theo dõi anh ta trong mọi nơi mọi lúc”. Có thể vì chưa hiểu được nhiệm vụ cách mạng này của nhà văn Nguyễn Quang Sáng mà nhà văn Đặng Tiến (bên Pháp) mới viết rất không đúng rằng: “Nguyễn Quang Sáng và Nguyễn Duy điếu đóm cho Trịnh Công Sơn” chăng? Có thể vài bài hát của Trịnh Công Sơn như: “Huyền thoại mẹ”,” Em ở nông trường em ra biên giới”, “Ngọn lửa Matxcơva”… anh làm trong lúc bị “phê” rượu Tây với sự tranh thủ hết sức thân tình của Nguyễn Quang Sáng chăng? Nếu anh Sơn là Việt Cộng, anh đã để cho nhà nước tổ chức đám tang mình ở Hội văn nghệ hay tại nhà tang lễ Lê Qúy Đôn giành cho những cán bộ công khai và cán bộ ngầm có công với hai cuộc kháng chiến. Anh Sơn trối lại cho các em là tang lễ anh sẽ chỉ tổ chức tại nhà mình 37D Phạm Ngọc Thạch mà thôi! Nếu anh Sơn là Việt Cộng nằm vùng, ít nhất anh đã được giải thưởng quốc gia về văn học nghệ thuật?

Trịnh Công Sơn không phải người của quân đỏ hay quân xanh. Anh là con của mẹ Việt Nam, đến đất mưa bom bão đạn này để hát lên niềm hi vọng về nỗi tuyệt vọng con người, hát lên tình yêu bi thảm kiếp người, hát lên nỗi buồn mang mang thiên cổ nhân sinh của một gã du tử đến từ khu vườn các thiên sứ. 




Chừng như từ khi sinh ra Trịnh Công Sơn đã bị thần thi ca, thần âm nhạc Apollon cướp mất cả hồn xác, biến anh thành âm nhạc, thành thi ca thuần túy. Bao nhiêu người đàn bà đẹp mê anh, yêu anh chừng như đã không giành được thân xác anh và linh hồn anh mãi mãi? Tình yêu anh đã hiến tế cho âm nhạc, thi ca, cho triết học, thiền học, không còn chỗ cho phái đẹp cư trú. Những người đàn bà ghé qua âm nhạc anh trú ngụ ít ngày rồi cũng “bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”. Nói cho cùng, tình yêu của Trịnh Công Sơn dành cho các người đẹp là một tình yêu thiên sứ. Mà thiên sứ thì chỉ yêu bằng tâm hồn thôi! Còn thể xác anh đã tận hiến cho đất trời, cho cát bụi, cho Phật, cho Chúa… cho âm nhạc của mình muôn thưở trường tồn cùng dân tộc Việt Nam. Mười một năm trước, Trịnh Công Sơn đã mang nguyên vẹn niềm trinh nguyên thiên sứ của mình về với cát bụi để mãi mãi thủy chung cùng cõi hư vô, thủy chung cùng thần Apollon mà bất tử với cây đàn Lia vĩnh cửu trên Niết Bàn ẩn cư trong trái tim mỗi người Việt yêu nhạc Trịnh...


Sài Gòn ngày 30-03-2012











_____________________________________________________




“NGƯỜI TÌNH” TRỊNH CÔNG SƠN 

Ngô Minh


1. 

10 năm Trịnh Công Sơn rời xa “cõi tạm”, âm nhạc của Trịnh vẫn vang lên ở mọi ngõ ngách trong tâm thức Việt, đời sống Việt. Trong hơn 600 ca khúc Trịnh Công Sơn gửi lại, ngoài âm nhạc cách mạng, nhạc phản chiến, còn lại đa phần là tình ca . Có thể nói Trịnh Công sơn là người tình của cuộc đời, của con người, của thiên nhiên muôn thuở : Tàn đông con nước kéo lên / Chút tình mới chớm đã viên thành…( Đoá hoa vô thường) ; hay Chiều nay còn mưa sao em không lại / Nhỡ mai trong cơn đau vùi / Làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau ( Diễm xưa).v.v.. Vậy NGƯỜI TÌNH của Trịnh Công Sơn là ai ? Đó là câu hỏi của bạn, của tôi, mỗi khi nghĩ về Trịnh …


Tôi là người sinh sau, gặp anh Sơn khi Huế giải phóng .Gần gũi mấy năm, tôi không nghe anh kể chuyện nhiều về những mối tình của mình . Phong phanh bạn bè kể rằng anh Sơn đã một lần ’cưới vợ’ đầu những năm 60 của thế kỷ trước. “Ngươì tình” Trịnh Công Sơn đó là một người đẹp nổi tiếng ở Sài Gòn có tên là Th. Hoàng Phủ Ngọc Tường kể : Cô ấy là một người Hoa. Đám cưới sang trọng . Sau đám cưới, phòng “tân hôn” của cô dâu chú rể vẫn ở khách sạn. Bạn bè cũng nghỉ ở đó mai mới về. Đêm, mọi người cứ tưởng Trịnh sẽ có một đêm “động phòng” hạnh phúc, nhưng trong khuya bỗng Trịnh Công Sơn chạy sang xin nằm ngủ với bạn… Không hiểu thông tin ấy chính xác tới mức nào. Theo nhà văn Bửu Ý, người bạn rất thân của Trịnh, chính xác thì Trịnh Công Sơn đã hai lần tính chuyện “cưới vợ”. Cả hai lần đều sau 1975. Lần thứ nhất là năm 1983, Trịnh chuẩn bị cưới người phụ nữ có tên là C.N.N sống ở Paris. Trịnh đã gửi thư cho Bửu Ý ngày 30.7.1983 rằng “Moi sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Cố gắng vào thì vui hơn”, nhưng dự định cưới vợ lần ấy của Trịnh đã không thành . Năm 1990, Trịnh Công Sơn lại tổ chức cưới vợ , người phụ nữ này là V.A, lễ cưới đã chuẩn bị xong, cô dâu đã may áo cưới, nhưng đến phút cuối không hiểu tại sao anh lại khước từ hạnh phúc. Ngoài những “người đẹp” trên, có một cô gái Nhật Bản tên là Michiko yêu Trịnh tha thiết, và Trịnh cũng yêu. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường trong cuốn bút ký “Trịnh Công Sơn- Cây đàn lia của Hoàng tử bé” ( NXB Trẻ 2005) thì Nhiều thiếu nữ,”fan” của nhạc Trịnh Công Sơn vẫn lui tới với anh hằng ngày, tìm thấy ở anh một tình bạn vong niên thật dễ thông cảm, vừa là một người tình lãng du của mọi lứa tuổi. Nhiểu bạn gái, trong đó có những người tình cũ của anh, đã trở về thăm anh như thăm lại nỗi cô đơn bẩm sinh khi người ta còn trẻ”. Cô gái Nhật Bản Yosshii Michico đã bỏ ra ba năm học tiếng Việt để nói chuyện được với Trịnh .Và làm luận văn cao học về nhạc nhạc phản chiến của Trịnh . Trịnh cũng có những năm tháng yêu một ca sĩ Hà Nội và đã viết những bài hát riêng cho ca sĩ này thể hiện . Trịnh Công Sơn thổ lộ:” Phải cảm ơn H.N vì nàng đã làm cho mình không chỉ tồn tại như một kẻ nhắc vở đến từ quá khứ”. Nhưng tất cả cuộc tình đều không đi đến kết quả. Nên kết cục Trịnh Công Sơn đã đi vào cõi vĩnh hằng một mình như khi mẹ sinh ra ! “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”… 


2. 

Nhưng nếu tính “người tình ”tâm hồn của Trịnh phải kể đến Bích Diễm , Khánh Ly. Sau ca khúc “Ướt mi”, đầu thập niên 60 ở Huế, Trịnh Công Sơn đã rung động theo hình ảnh một thiếu nữ mảnh mai, con của một vị giáo sư dạy Pháp văn: Ngô Vũ Bích Diễm. Hình ảnh này sẽ vương lại mãi trong trái tim ông như một vết thương thành vết sẹo giữa cuộc đời. Ca khúc nổi tiếng “Diễm xưa” ra đời, một ca khúc đánh dấu đặc biệt trong đời của Trịnh và tồn tại lâu bền


Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…
( Diễn Xưa)


Diễm xưa đã trở thành một hình dung từ chỉ cái đẹp nhạc Trịnh mà không biết bao nhiêu thương nhân Việt đã lấy để đặt tên cho quán của mình.. Hỏi về chuyện Diễn xưa, Trịnh Công Sơn trả lời rằng :” Ngày xưa dường như cả thế hệ tôi là vậy, yêu một mái tóc, một dáng hình, một ngày chỉ cần nhìn thấy mặt nhau, thấy em qua khung cửa sổ là cả ngày thấy vui”. Trong ca khúc Diễm Xưa có đoạn ca từ bất tử : Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động / Làm sao em biết bia đá không đau / Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng / Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. Ấy là triết lý cuộc đời , triết lý Thiền mà Trịnh Công Sơn đã phát hiện ra từ khi còn rất trẻ.


Nhưng phải nói rằng với Trịnh Công Sơn, Khánh Ly mới là Người Tình muôn đời. Dường như toàn bộ tình ca Trịnh là viết riêng dành cho giọng hát Khánh Ly . Nói theo cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì “với Sơn, Khánh Ly luôn luôn là giọng hát Người Tình”. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn, Trịnh Công Sơn được bổ lên dạy học ở Bảo Lộc. Và Trịnh đã gặp Khánh Ly với cái tên Lệ Mai ở phòng trà Tulipe Rouge, Đà Lạt. Thế là “nên duyên” . Nhạc Trịnh Công Sơn bắt nguồn từ triết học hiện sinh và tư tưởng Phật học, nhưng lại chọn riêng một NGƯỜI TÌNH để gửi – đó là Khánh Ly. Trịnh nghe Khánh Ly hát, nhận ra ngay giọng hát của cô ca sĩ này phù hợp với những bản nhạc tâm thức của mình . Trịnh Công Sơn kể : “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly…Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực nhưng đầy hạnh phúc ấy: “Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh…” Những ngày tháng cuối năm 1965 đó, bằng cây đàn guitar thùng đơn giản, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã làm say đắm hàng ngàn khán giả mỗi đêm diễn. Hình như họ sinh ra để có nhau, vì nhau, vì những bản tình ca. 


Hồi đó, Trịnh Công Sơn, với dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng, giọng Huế nhỏ nhẹ. Đêm đi hát, khuya về kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Quán Văn hay Hội Họa sĩ Trẻ. Bên cạnh đó hình ảnh Khánh Ly, khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất của một thời – giọng hát da diết diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”. Hai người đi với nhau tạo nên hình ảnh “đôi lứa”, một đôi trai-gái trong tình bạn hồn nhiên, trong sáng. Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò… Những tâm hồn phóng khoáng và “hiện đại” thì gạt phăng đi loại “tò mò bệnh hoạn ấy” “ . Và đặc biệt, Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Sơn nói: “Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô cùng, trên tình bạn” . Khánh Ly viết: “Một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường” ; hay :” Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của tôi”…Tình cảm, tình yêu thánh thiên của Trịnh Công Sơn- Khánh Ly thời đó như là một biểu tượng phá vỡ lề thói Nho giáo trói buộc tình cảm nam nữ. Đó chính là Bá Nha-Tử Kỳ thời hiện đại !


Năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam sang định cư ở Mỹ, còn Trịnh thì cương quyết ở lại Việt Nam , vì “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể sống và sáng tác. Ở nước ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình, tôi không nghe được câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nước ngoài, nhưng nếu ở lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống như nước cần thiết cho hoa vậy”. Đau nỗi đau chia ly, Trịnh Công Sơn đã viết ca khúc:” Em còn nhớ hay em đã quên”, mà ai nghe hát cũng nghĩ là viết tặng Khánh Ly : Em còn nhớ hay em đã quên / Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng / Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân …


Năm 1982, Trịnh Công Sơn sang Canada thăm em và đã gặp Khánh Ly. Sau lần gặp, Khánh lý viết :” Có ai trong chúng tôi nghĩ rằng có một ngày nào đó phải thương nhớ nhau từng phút giây. Tuy vậy bằng cách nào đó, chúng tôi vẫn ở trong trí tưởng của mọi người, như ngày đầu ngồi với nhau, vào đời nhau bằng những bản tình ca” ( Hoàng Phủ Ngọc Tường- Trịnh Công Sơn và cây đàn lia và hoàng tử bé).


Trong hồi ức về Trịnh Công Sơn “Những kỷ niệm còn mãi trong tôi”,nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ kể rằng, trong căn nhà ở Khu chung cư Nguyễn Tường Tộ, Huế, anh Sơn ngồi, tay cầm cây bút xạ, mũi viết vẫn còn hướng xuống mặt bàn, khuôn mặt anh thảng thốt. Anh viết hai chữ Khánh Ly đầy cả một tấm giấy gần kín mặt bàn. Có lẽ anh Sơn viết rất lâu nên nó mới nhiều đến thế… Thấy Mỹ Dạ đến anh Sơn cho dạ xem tập ảnh chụp Trịnh Công Sơn chụp chung với Khánh Ly. Trong đó có bức Khánh Ly ngồi trong lòng Trịnh Công Sơn, trên hai bắp đùi. Rồi anh Sơn hỏi :” Dạ có biết ai chụp hình cho tụi mình không ?. Dạ lắc đầu. Anh Sơn bảo :” Chồng của Khánh Ly đấy .”. Đúng là NGƯỜI TÌNH muôn đời của Trịnh Công Sơn. 


3.


Nhưng đó là những người tình cụ thể, dù rất đẹp vẫn là cái hiện hữu. NGƯỜI TÌNH của Trịnh Công Sơn biểu hiện qua toàn bộ tình ca của anh ảo diệu hơn nhiều, ám ảnh hơn nhiều. Trịnh Công Sơn nói :” Với ca khúc, tôi là người tình của thiên nhiên. Tình yêu cho phép những ca khúc ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào thai sinh nở ra âm nhạc”. Anh lại nói :”Tình yêu cứu vãn hư không “. Anh Sơn nói :” Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho tới sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết… Có lẽ do tôi quá yêu cuốc sống, sợ mất nó… Vì thế trong thế giới ca từ Trịnh Công Sơn có rất nhiều chữ phai , tàn phai, chết, lá rụng , như vôi, nhỡ .v.v.. ” Bao nhiêu năm làm kiếp con người/ Để một chiều tóc trắng như vôi…( Cát bụi); Nhỡ mai trong cơn đau vùi / Làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau ; ôi cát bụi phận này/ vết mực nào xoá bỏ không hay ( Cát bụi); yêu trăm năm và chết một ngày.v.v.. Và NGƯỜI TÌNH CUỘC SỐNG ấy hiện ra trong âm nhạc Trịnh bao giờ cũng là những cô gái gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi;… Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay.v.v..Nghĩa là mong manh lắm, dễ vỡ lắm. Phải thương yêu hết lòng, cưu mang hết lòng mới cứu vớt được. Đồng thời tình yêu của kiếp người bao giờ cũng là tình phôi pha, tình sầu, tình phụ, tình buồn, tình trôi, tình hư vô… Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô ( Rừng xưa đã khép) ; Tuổi buồn em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ ( Tuổi đá buồn).v.v.. Đó là Phúc âm buồn của cõi người luôn mong được sẻ chia, đồng cảm!


Đó là những “vị hôn thê chưa cưới”. Còn “người tình” tâm tưởng góp phần làm nên sức lắng đọng bền bỉ của âm nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ không ai biết hết được ngoài anh ra. Những năm 1962- 1964, để tránh đi quân dịch, Trịnh Công Sơn rời Huế thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn, và học trong hai năm. Ở thành phố biển xinh đẹp này, Trịnh đã sáng tác một loạt bản tình ca nổi tiếng , gây kinh ngạc và sự thán phục cho công chúng. Sau đó nhạc sĩ lên sống ở Bảo Lộc, Lâm Đồng , vẫn viết những ca khúc cho một người . 10 năm qua chưa tài liệu nào nói tới chuyện này. Nhưng rồi thời gian đã trả lời.


Đầu năm 2011, trong Giai phẩm xuân Tân Mão Sài Gòn Tiếp Thị lần đầu tiên công bố những di bút rất riêng tư của bà Ngô Vũ Dao Ánh, em ruột của Ngô Vũ Diễm My . Bà Dao Ánh cho biết 40 năm ở nước ngoài, bà đã cất giữ 320 bức thư tình mà Trịnh Công Sơn đã viết cho bà từ những năm 1964-1967. Những bài tình ca như Phúc âm buồn, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh, Như cánh vạc bay, Chiều một mình qua phố…đều viết cho Dao Ánh. Dao Ánh còn giữ lại nguyên vẹn bản viết tay đầu tiên của Mưa hồng, Tuổi đá buồn với lời đề tặng “bản của Ánh đó”.Có lẽ giai nhân Ngô Vũ Dao Ánh mới là người tình đầu tiên và người tình bất tử của Trịnh Công Sơn. Kỷ niệm 10 năm ngày mất của Trịnh, cuốn sách in 320 bức thư tình ấy ra sra mắt bạn đọc. Thật hi hữu và xúc động Nhà thơ Nguyễn Duy, người được gia đình Trịnh Công Sơn tin cậy giao phó việc biên tập và xuất bản tác phẩm Thư tình gửi một người, thổ lộ: “Đọc hết ba trăm hai mươi bức thư tình, tôi gần như choáng váng. Cảm ơn những người tình như Dao Ánh đã biết gìn giữ tình yêu của anh Sơn trong bốn mươi sáu năm qua, tức là gần nửa thế kỷ. Dao Ánh vừa là một tình yêu rất cụ thể, đồng thời là một tình yêu biểu tượng. Một tình yêu cụ thể đã chấm dứt, nhưng biểu tượng tình yêu thì bất tử với thời gian…”. 


THẾ GIỚI CHUNG QUANH TA

























ẢO ẢNH