Friday, June 29, 2012

Đảng Cộng Sản và niềm tin giãy chết


Tôi đã tự nhủ với mình rằng chẳng nên viết lách gì về cái xã hội và đất nước đảo điên này nữa. Vì rằng có ta thán nhiều hơn, có đau đớn và bức xúc nhiều hơn cũng chẳng thay đổi được gì! Chung quanh tôi, hầu như mọi người đều đã quá quen với những bất công, dối trá nên ai ai cũng mặc nhiên chấp nhận. Lớp chóp bu thì vẫn nghiễm nhiên trơ tráo đeo mặt nạ lãnh đạo đất nước. Lớp ăn trên ngồi trước thì chỉ nghĩ tới 1001 chiêu móc ngoặc, đút lót, câu kết chia chác với các trùm chính trị để dành được nhiều hợp đồng béo bở hơn, xơi miếng ngon hơn dù có phải xây dựng cơ đồ trên máu và nước mắt của người khác cũng không chùn tay. Lớp trung lưu, trí thức thì luồn luồn cúi cúi an phận qua ngày, nỗi SỢ HÃI ngấm ngầm từ đời cha tới đời con trong một chế độ toàn trị đã làm mọi người co rúm lại. Thi thoảng vài tiếng nói đối kháng nổi lên thì đã có sẵn đó cái mũ phản động, khủng bố chụp vào. Lớp thanh thiếu niên (tương lai của dân tộc) thì nhờ vào nền giáo dục tuyệt vời và đội ngũ truyền thông ưu việt XHCN mà giờ đây đại đa số chỉ hứng thú tìm hiểu thời sự Lá Cải, háo hức tìm tòi ngôi sao nào dính scandal nào? Phải chăng người mẫu Y cố tình lộ đồ lót trên sàn diễn? Đại gia X nào đi siêu xe mấy tỷ? Cô hot girl nào phát biểu gây sốc ra sao? Cái ví hàng hiệu được sao K diện hôm ấy giá bao nhiêu tiền? Người mẫu nào có chân trong đường dây mại dâm giá khủng?!


Ngoài những tư tưởng văn hóa rẻ tiền ru ngủ ấy, lớp trẻ cũng phấn đấu đấy chứ, nhưng là sự phấn đấu để sở hữu vật chất! Đổi được cái điện thoại đời mới, cái moto mới là hả hê, mãn nguyện rồi.


Hãy hỏi thế hệ thanh thiếu niên hôm nay biết gì về tình hình đất nước, biết gì về dân chủ, tự do ngôn luận, tự do tư duy, bạn sẽ thấy lòng mình se lại vì thất vọng và cả …sợ hãi cho ngày mai của đất nước! Lớp dân đen bần hàn – tuyệt đại đa số dân chúng thì chẳng còn khái niệm nào khác ngoài khái niệm phải mửa mật chạy ăn từng bữa. Khi cái bụng còn teo tóp gào cơm, con cái nheo nhóc chật vật đóng tiền trường lớp thì họ còn nghĩ gì khác được?



Tôi đã hỏi mình tới hơn ngàn lần: ví dụ một chế độ XHCN ƯU VIỆT như chế độ ta, với dàn lãnh đạo đầy TRI THỨC, ĐẠO ĐỨC cách mạng, thấm nhuần tư tưởng Marxist Leninist vĩ đại – nếu được BÊ nguyên xi qua một quốc gia phát triển nào đó thì liệu nó có thể tồn tại được bao lâu? Tôi tin chắc rằng sẽ không quá một tuần lễ! Tôi cũng tin rằng triệu triệu con người dù sống dù chết, dù phải chịu tù đày, họ cũng nổi lên tống cổ cái chế độ ưu việt không giống ai này vào sọt rác. Vì sao? Vì ở các nước văn minh, tự do là lẽ sống, là đích của cuộc sống, là chân lý, LÀ TẤT CẢ! Còn chúng ta thì khác, chúng ta chỉ cần thở, ăn và ngủ! Tự do tư duy, tự do ngôn luận, báo chí- từ lâu đã thành một khái niệm mơ hồ, xa xỉ đối với dân Việt, chúng ta chắc cũng thèm thuồng lắm, nhưng chẳng dám làm gì để giành lấy!


Dưới sự dẫn dắt của Đảng trong mấy mươi năm qua, từ một dân tộc bất khuất, kiên cường chúng ta đã trở nên cam chịu, nhẫn nhục, an phận và Vô Cảm đến rợn… người…


Tôi đã tự nhủ với mình là hãy làm như mọi người đi, như đám đông đang sống, đang thở và đang co rúm ấy! Nhắm mắt lại đi trước bao điều gai mắt, chung quanh ta cũng bao kẻ nhắm mắt đó thôi! Đừng hy vọng vào bất cứ một điều tốt đẹp nào cho cái đất nước có số phận bi đát, trớ trêu này để rồi lại thất vọng như đã triền miên thất vọng!

Vì cứ y như rằng, khi niềm hy vọng mong manh vừa nhen nhúm lên về một sự cải tổ nhỏ nhoi nào đó trong lòng Đảng để may ra lớp lãnh đạo ít nói một đằng làm một nẽo, ít tham lam, ít ngu xuẩn đi cho dân chúng bớt khổ, đất nước bớt nghèo, bớt lạc hậu thì ngay lập tức tôi và sự ngây thơ cố hữu của tôi lại bị dội một gáo nước lạnh toát vào mặt.


Ngài TBT sau kỳ họp vừa qua vẫn tuyên bố kiên định con đường XNHC, vẫn đinh đóng cột: xí nghiệp quốc doanh là chủ đạo phát triển của nền kinh tế… què quặt, vẫn ra rả đất đai sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý!!!


Các ông nghị, bà nghị hết kỳ họp này tới kỳ họp khác vẫn chỉ là những diễn viên câm điếc của một màn kịch dân chủ cũ rích, vô nghĩa.



Luật pháp vẫn ngang nhiên, mặc cho lời kêu gọi của quốc tế, của lương tâm, xử dụng những điều luật rừng rú để bỏ tù đối kháng như: Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng, nói xấu lãnh tụ, trả lời phỏng vấn đài địch, bôi nhọ thành quả cách mạng. Ôi những điều buộc tội cứ như trong vở kịch hài trơ tráo, thế mà chua chát thay bao người yêu nước đã bị ném vào ngục tù vì những sự quy chụp vô luân và lạc hậu ấy!


Đau đớn thay cho VN, cho tổ quốc, đã nghèo, đã bị chiến tranh tàn phá triền miên, nay vẫn è cổ đeo cái vòng kim cô của một nhóm người ngu xuẩn, núp sau chiêu bài cách mạng và Đảng để ăn trên ngồi trước cả một dân tộc!


Tôi đã bảo mình chẳng nên viết gì nữa, và nếu được thì hãy học cách che giấu cảm xúc của mình đi. Sống trong xã hội mà mọi người, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi đều phải đeo mặt nạ để tồn tại- đọc tờ báo chính thống thì đa phần là những lời nói láo được định hướng, hoặc bị cắt xén thông tin theo chỉ thị của ban tuyên huấn – coi tivi thì cũng rặt những phóng sự bịa đặt, hoặc ca tụng Đảng, hoặc hè nhau bôi nhọ một người nào đó cho vừa lòng chính quyền – sách giáo khoa thì khỏi bàn tới, người ta ngang nhiên bịa ra lịch sử, bịa ra những anh hùng, thì Sống Thật, Nói Thật, bày tỏ Cảm Xúc Thật ở xã hội này hôm nay là điều nguy hiểm, là đơn độc lội ngược dòng nước!!!

Thế nhưng hôm nay tôi lại muốn viết, để chia sẽ với các bạn những cảm xúc của tôi sau khi đọc một bài phóng sự trên Dân Trí. Bài báo tả cảnh các em học sinh người dân tộc tại Nghệ An hàng ngày lội bộ trên những quãng đường xa thẳm để đến trường, đã vậy còn phải oằn tấm thân bé bỏng gầy gò địu em nhỏ trên lưng. Những đứa trẻ miền núi nhọc nhằn học chữ một tay vỗ em, một tay chép bài vì cha mẹ còn phải bươn chải nương rẫy kiếm miếng ăn. Quần áo các em mặc, mùa mưa cũng như mùa nắng chỉ độc nhất một bộ tả tơi. Trường học là những bức tường trống hoác, xiêu vẹo, xơ xác tới mức không thể nào xác xơ hơn nữa…

Cổ họng tôi đã thắt lại khi nhìn tấm ảnh cô chị bé xíu hí hoáy chép bài, bên cạnh tấm cửa mục nát của lớp học buộc một sợi dây cho thằng cu em chân đất ngơ ngác đứng chơi.

Trong lòng tôi tràn ngập một thứ cảm xúc khó tả, trộn lẫn giữa sự thương xót và áy náy.

Thương các em nghèo khổ, cơ cực mà vẫn ham học. Áy náy vì thấy cuộc sống con cái của mình so với các em thật là …một trời một vực!

Chen vào những cảm xúc ấy là sự căm phẫn và ghê tởm khi đọc những điểm tin kinh tế đang âm ĩ nóng từ hàng tháng nay như: vụ Vinashin đang hầu tòa, EVN lỗ lã ngàn tỷ, Sông Đà lỗ ngàn tỷ, Petrol VN cũng ngàn ngàn tỷ, Vinalines ngàn ngàn tỷ…Tóm lại rờ tới BẤT KỲ công ty quốc doanh- sân sau của các ông bà chóp bu là chỉ thấy toàn lỗ…và lỗ, với những con số khổng lồ ngoài sức tưởng tượng!

Và ngài thủ tướng, các ngài bộ trưởng, thứ trưởng, những người dự phần chia chác, hoặc có trách nhiệm trong các khoản nợ ấy vẫn đều đặn lên mặt báo, lên tivi! Họ vẫn cười toe toét (một cách nhục mạ đám dân ngu!), vẫn nói mà không đỏ mặt, vẫn ra vẻ lạc quan, vẫn là những bộ mặt nhung nhúc mỡ, đôi mắt him híp, đục màu tham vọng, và tối om sự thông minh, trung thực, vẫn những nụ cười giả tạo trấn an dân chúng, và vẫn điệp khúc muôn đời: Sẽ tiến hành kiểm điểm, tự kiểm điểm, nghiêm túc rút kinh nghiệm… và chấm hết!

Các ông quan, bà quan sẽ tiếp tục tại vị, tiếp tục nghĩ trăm mưu ngàn kế khác mà vơ vét, dù đất mẹ chỉ còn xương bọc da, chồng chất nợ nần. Lòng tự trọng và liêm sĩ của đám lãnh đạo nước nhà ít ỏi biết bao, nhưng lòng tham và sự chây lỳ tham quyền cố vị thì vô tận.

Chỉ tội cho đất nước vô phúc này, tiền bạc, mồ hôi nước mắt, tài nguyên bị ăn cướp trắng trợn như thế mà chỉ vài ba câu xin lỗi suông là huề cả làng, đố ai dám ho he phản đối! Sau những lời nhận khuyết điểm, rút kinh nghiệm “chân thành” ấy là chúng ta- đời con, đời cháu, chắt sẽ è cổ gánh lấy những khoản nợ khổng lồ…Và nhân dân ta ơi, hãy nai lưng làm việc trả nợ đi, đời này và cả đời sau, tuyệt đối không được than van, không được phép nghi ngờ vào sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, của CHÍNH QUYỀN nhé!

Đảng đã lu loa, treo hàng trăm ngàn biểu ngữ từ năm này qua tháng nọ, cùng khắp đất nước là Đảng sáng suốt,đời đời dẫn dắt nhân dân đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác kia mà!

Cứ nhìn vào nền kinh tế hiện nay, thực trạng xã hội, và nền giáo dục thì mới biết Đảng tài ba thế nào, và chúng ta may mắn biết bao khi được dẫn dắt trên con đường màu nhiệm XHCN!

Vâng, tôi được học nằm lòng những lý luận ấy vì tôi lớn lên dưới ơn mưa móc của Đảng, thế mà sao khi viết những dòng này, cổ họng tôi vẫn cứ đắng chát, mắt cứ cay cay…

Hình ảnh các em miền núi cơ cực, những cụ già đêm khuya còng lưng bươi rác, những trẻ em lang thang rách rưới tìm miếng ăn trên đường phố, khến tôi bần thần nghĩ tới hàng vạn trăm ngàn tỷ kia…nếu được dùng đúng đắn cho những phúc lợi xã hội thì hạnh phúc biết mấy….Thế nhưng khốn nạn thay, đống tiền kếch xù kia chỉ chạy thẳng vào túi một nhóm người, mà người ta gọi là giai cấp đảng viên lãnh đạo. Hỏi xem nơi nào trên thế gian này có giai cấp lãnh đạo tài ba như nước ta, nơi mà thằng tiến sĩ giả được quyền chỉ huy ông tiến sĩ thật? Nơi mà tên học tại chức mua bằng giả lại có thể leo tót lên cái ghế CEO, chỉ huy những người trí thức hàng đầu. Nơi mà từ thứ trưởng, bộ trưởng toàn xài bằng cấp xạo, một câu bẻ que tiếng Anh không biết mà vẫn lăm le xâu xé nhau giành quyền lãnh đạo đất nước! Nơi mà các lãnh tụ chính trị không còn chút khái niệm nào về Sự Liêm Sĩ và Trung Thực. Nơi mà “ phong bì’ và “bồi dưỡng” đã thành văn hóa của cả quốc gia?

Hôm nay trời mưa, bầu trời mù mịt như bầu trời tổ quốc dưới sự dẫn dắt của Đảng vinh quang vậy.

Đảng ơi, bao giờ những người tài giỏi liêm khiết mới được nắm quyền lãnh đạo đất nước?

Đảng ơi, bao giờ những ông kẹ vừa ngu dốt, vừa tham nhũng, vừa gian giảo bị tống vào tù vì đã chia chác hàng trăm vạn tỷ đồng công quỹ, trong khi trên đất nước vẫn còn triệu triệu người dân nghèo lõ đít, không có miếng cơm ăn?

Hàng vạn trẻ em cầu bơ cầu bất không được tới trường?

Đảng ơi, bao giờ Đảng mới trả lại quyền làm người cho nhân dân?

Một người cùng quẫn và khủng hoảng niềm tin vào ngày mai của đất nước…

27/06/2012


_________________________


GIẤC NGỦ THIÊN ĐƯỜNG



















Wednesday, June 27, 2012

NHỮNG NHÀ THƠ KHÔNG THỂ BÓP MÉO LINH HỒN



ĐỖ TRƯỜNG



Thế hệ những nhà thơ đã trải qua chiến tranh, phần đông (các nhà thơ Miền Nam) đã bỏ nước ra đi. Những nhà thơ còn lại, tuổi đã cao và rơi rụng khá nhiều. Họ là những người ít, nhiều đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tàn khốc nhất của lịch sử dân tộc, kể từ khi lập quốc đến nay. Có thể nói, dù ở chiến tuyến nào và ý thức hệ có khác nhau, nhưng lòng yêu nước của họ, không ai có thể phủ nhận.

Sau năm 1975, những nhà thơ còn ở lại phải đương đầu với cuộc chiến khác không kém phần khốc liệt. Các thi sĩ thua trận, được đưa ra vùng núi cao Hoàng Liên Sơn để “học tập“ thành con người mới. Một số trong họ không thấy trở về. Một nhà thơ tôi quen, may mắn hơn, sau hàng chục năm, khóa “tu luyện“ kết thúc, được con cháu đón sang Đức, bị chột, không còn viết lách gì được nữa. Không hiểu ở trong trại, họ cho “học tập“ những gì, sau mấy chục năm ở trời Tây, thế mà gặp ai bác vẫn co rúm người lại, cứ tưởng là mấy ông “thầy“ quản giáo trong trại. Khiếp thật! một nỗi ám ảnh đến kinh khủng. Nên mỗi lần nghĩ đến bác thi sĩ này, tôi lại nhớ đến truyện cực ngắn Hạt Thóc của Phù Thăng. Nhưng ngược lại, nhiều bác sau những năm tháng bị học tập, thần kinh càng thêm vững trãi. Khi trốn được ra nước ngoài, các bác cứ nhả đạn đều đều.

Những nhà thơ từ R theo đoàn quân chiến thắng tràn vào thành phố. Nhiều bác nhân lúc nhộm nhoạm tranh thủ ngoặt sang làm chánh trị. Có bác tốt số, gặp thời nhảy tót lên ngồi chỗm trệ chiếu trên. Điều tất nhiên có rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp cùng thời đã phải khốn khổ nằm xuống để làm những nấc thang cho bác. Có lần tôi được ngồi chầu rìa, điếu đóm, nghe nhà thơ Xuân Diệu nói chuyện, theo ông cuộc chiến tranh vừa qua, khốc liệt như vậy nhưng đã sản sinh ra nhiều nhà thơ có tài.

Vâng! Đúng như thế, thế hệ này có rất nhiều nhà thơ tài năng, nhưng giữ được linh hồn đích thực thi sĩ lại là chuyện khác. Tôi không phải là người nghiên cứu, phê bình văn học, nên chỉ cảm nhận từ rung động trực tiếp và bằng trực giác riêng của mình về cái hay cái đẹp và tâm hồn, khí phách người nghệ sĩ qua các bài thơ và trang viết của họ. Các nhà thơ, có năm tháng tuổi trẻ đã đi qua chiến tranh, nay tuổi đã cao, sức đã yếu, họ vẫn trăn trở, thai nghén viết ra những câu thơ đọng lại trong lòng người đọc. Trong số họ, để lại những dấu ấn đậm nhất trong tôi là nhà thơ Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo. Về sự nghiệp cũng như tài năng của hai nghệ sĩ này đã được nhiều thế hệ học trò, cũng như các công trình luận văn bậc đại học cho đến tiến sĩ phân tích đánh giá nhiều rồi. Nhưng những bài thơ(chính luận) phản kháng, một cách công khai, khảng khái với những gì đang diễn ra trong cuộc sống đầy nhiễu nhương này của Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo, làm tôi xúc động mạnh.

Dù chênh nhau về tuổi tác, nhưng có thể nói BMQ và TMH đều sinh ra, và trưởng thành trong chiến tranh. Nếu như BMQ xuất thân từ gia đình tiểu tư sản, công chức thành thị, thì TMH có nguồn gốc gia đình thuần nông ở Miền Bắc VN. Tài năng văn thơ hai ông, đều bộc lộ ngay từ thuở thiếu thời. Năm tháng của tuổi trẻ, các ông đã trực tiếp cầm súng và cầm viết. Có thể nói các ông là những người có công với chế độ. Nhưng sau chiến tranh, hạnh kiểm hai ông được xếp vào dạng yếu kém, bị loại ra khỏi hàng ngũ những người con ưu tú. Lịch sự như các cụ nhà ta bảo, đứt gánh giữa đường. Bỗ bã của kẻ hàng nước, các bố bị tuột xích. Biên chế nhà nước cũng mất, tức là cái dạ dầy của các bác cũng bị thiến luôn. Vậy là bao công lao vào sinh ra tử của các bác đổ xuống sông xuống bể cả. Thật là, chẳng cái dại nào giống cái dại nào. Cứ thẳng đường tiến “ vì chủ nghĩa xã hội“ như khẩu hiệu trên trang nhất báo văn nghệ, không tốt số như bác Điềm, bác Thỉnh, các bác cũng có chiếu giữa để ngồi. Đằng này trên đầu của các bác chỉ còn Tổ Quốc và nhân dân, đi đứt là cái chắc rồi.

Bùi Minh Quốc được cho là nhà thơ của tình yêu, nhưng thẻ thông hành của ông đến với làng văn lại là một bài thơ cổ động Lên Miền Tây. Bài thơ này nói lên( tâm trạng thật của BMQ) cái không khí sục sôi, cháy bỏng của một thời tuổi trẻ. Họ bỏ sách vở, rời xa thành phố, theo tiếng gọi của đảng, lên với Miền Tây, phá rừng khai hoang, làm kinh tế mới:

“ ..Ôi Miền Tây, ở miền xuôi sao nghe nói ngại ngùng

Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy

Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường

Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương

Nghe khát vọng chất chồng mơ ước..“

Có lẽ lúc đó, nhà thơ cũng không hiểu rằng, bài thơ này góp phần không nhỏ cho một chính sách sai lầm, di dân phá rừng vô tổ chức của đảng. Làm cho rừng đầu nguồn trơ trụi, thiên nhiên biến dạng, tạo nên những cơn lũ quét kinh hoàng như chúng ta đã thấy. Hậu quả đó không chỉ ở Tây Bắc mà những cánh rừng bạt ngàn Tây Nguyên hôm nay đã, đang đốt phá, nham nhở và môi trường, thiên nhiên bị tàn phá nặng nề. Đà Lạt, nơi nhà thơ đang sống, có lẽ tiếng thông reo sắp trở thành quá khứ.

Tôi yêu thơ Bùi Minh Quốc, vì ông chỉ viết khi con tim của ông rung lên với những cảm xúc thật sự. Nghỉ chân dưới tán rừng già nơi hành quân gian khổ ấy, khi đồng nghiệp, đồng đội của ông viết về những “ Đêm Trường Sơn Nhớ Bác“ thì ông nhớ và viết về người vợ thân yêu (cũng là nhà văn) vừa hy sinh. Tôi tin rằng, tình cảm lúc đó của BMQ rất thật, khi ông viết:

“.. Để làm nên những buổi mai đầy nắng

Em bối rối và sững sờ đứng lặng

Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên

Thức dậy bao điều cao quí trong em

Thức dậy bao điều mới mẻ trong em

Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc

Và em gọi đó là hạnh phúc…“

Phải nói thẳng, tâm lý con người, khi xa nhà, việc đầu tiên phải nghĩ đến là vợ con, bố mẹ, anh em và quê hương, nơi đó có bạn bè, xóm giềng. Chỉ có kẻ điên, giữa rừng Trường Sơn âm u, lại nhớ đến người không quen, chưa từng gặp, dù người đó là ai hoặc có là thánh nhân đi chăng nữa. Điều này phi khoa học, trái với qui luật của tự nhiên. Với những thơ văn định hướng, giả dối, nặng mùi tụng ca thế này, văn học nước nhà bao giờ mới lớn lên được. Qủa không ngoa, có một nhà nghiên cứu nói rằng, Viêt Nam muốn có giải văn học lớn, nên giải tán hội nhà văn đi, để cho các nhà văn tự thân vận động. Và hãy để họ viết những gì họ đang nghĩ. Những nước nhận được giải Nobel về văn học, vì họ có những ông bà Thủ tướng, Tổng thống không bao giờ dám há mồm ra nói, lãnh đạo, định hướng tư tưởng các nhà văn.

Kỳ đại hội nhà văn vừa rồi, không hiểu sao, những bài diễn văn, dạng xã luận báo nhân dân, micro nghe cứ sang sảng làm nhức cả tai người nghe. Ấy vậy mà đến lúc bác Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo phát biểu là cái micro giở chứng tắc tị, làm hai bác đứng như phỗng, tịt ngòi luôn. Khùng lên, các bác đổ nghiến cho cái đại hội nhà văn là đại hội bịt miệng. Dù Hữu Thỉnh có giải thích, do trục trặc kỹ thuật, sẽ nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm. Nhưng các bác lại cho đây là chủ trương của Hữu Thỉnh và ban tổ chức. Nói như vậy có lẽ oan cho Hữu Thỉnh. Cùng đồng đội, nhà văn với nhau, hơn nữa bác Thỉnh là đảng viên ưu tú, lẽ nào đê tiện, bẩn thỉu đến như vậy?

Nghe nói, sau đó bác Quốc, bác Hảo tuyên bố giã từ đại hội bịt mồm, giã từ hội viên của hội nhà văn. Mấy thằng chúng em ở bên này xin kiến nghị, hai bác đừng tự vất bỏ cái danh hiệu cao sang này (cái thẻ này nhiều thằng rất thèm. Cùng bất đắc dĩ, các bác cà thằng nào nhiều tiền, hám danh, bán lấy tiền ăn chơi, dối già, vứt đi uổng lắm). Lần đại hội tới các bác cứ việc tham dự và xung phong phát biểu. Chúng em đã bàn nhau mua tặng hai bác cái micro và âmly. Phòng khi các bác đang phát biểu, micro của bác Thỉnh, bác Thiều giở chứng như lần trước, các bác chỉ việc rút micro này ra, bấm và tiếp tục đăng đàn như thường… Chắc các bác cũng biết, loa và âmly của thằng Đức, tốt nhất thế giới, nhỏ như cái camera thôi nhưng cũng đủ cả hội trường nghe rõ ràng. Dẫu biết rằng, ý kiến của các bác cũng như đàn gảy tai trâu, nước đổ đầu vịt mà thôi, nhưng nó sẽ thoát được cái ấm ức dồn nén lâu ngày ở trong người. Chúng em ở bên này được nghe cũng mát lòng, mát ruột. Chứ để lâu ngày dồn nén, đóng cục xộc huyết áp lên đỉnh đầu thì chí nguy.

Nếu như thơ tình của Bùi Minh Quốc, nhẹ nhàng, đằm thắm bao nhiêu thì những bài thơ (chính luận) phản kháng của ông hùng hồn, sắc mạnh bấy nhiêu. Nó như nhát dao chọc thẳng vào những cái ung nhọt của xã hội. Nó hơn cả những bản án đập vào mặt bọn cường quyền:

“…Chúng nó nhậu từng cánh rừng dải núi

Từng khoảng trời miệt đất lòng khơi

Nhậu tất cả từ Vua Hùng để lại

Nhậu đến nàng Tô Thị hóa thành vôi

Chúng nó nhậu trên thân em trinh bạch

Trên lưng mẹ già còm cõi một đời bom..“

Có thể nói thơ của BMQ sù sì, hiên ngang, chính trực như chính con người ông. Với ông, Tổ Quốc và nhân dân là tất cả. Ông đau với cái đau của nhân dân, của đất nước. Và đây là cái đau về cả thể xác lẫn tâm hồn trong một lần ông bị hỏi cung, thẩm vấn. Trong cái nghẹn ngào uất hận ấy, thơ của ông vọt ra, nấc lên trong màn đêm của ngục tối:

“ Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy

Con yêu người ngục tối một trời xanh

Ôi! Tổ Quốc trong tay quỷ dữ

Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình..”

Nếu như “Lên Miền Tây” là bản hoan ca vào đời của BMQ thì bài thơ “ Cay Đắng Thay” là tiếng thán ca đầy chua xót hôm nay của ông. Bài thơ rất ngắn, đơn giản, nhưng hay nhất của BMQ viết về đề tài chính trị xã hội. Ông dùng thủ pháp ẩn dụ, thông qua hình tượng cỗ máy, để bóc trần bộ mặt giả dối của kẻ cầm quyền. Qua đó bật lên sự cay đắng, chán chường của ông, thế hệ ông, cũng như thế hệ trước và sau ông. Tôi cho rằng, bài thơ này như một lời thú nhận, tổng kết lại cả cuộc đời, sự nghiệp văn thơ của ông từ ngày theo đảng. Có lẽ không riêng tôi, có rất nhiều, rất nhiều người, cảm phục cái yêu như điên cuồng của BMQ, nhưng dám rũ bỏ, tranh đấu đến tận cùng, khi ông đã nhận ra bộ mặt thật của nó.

“Cái guồng máy nhục mạ con người

Mang bộ mặt hiền lành của kẻ cuốc đất

Ù lì quay

Quay

Thao thao bài đạo đức

Liệu có mấy ai còn ngây?

Cay đắng thay

Mỉa mai thay

Trọn tuổi xuân hiến dâng cuồng nhiệt

Lại đúc nên chính cỗ máy này.”

Có người ví nhà thơ Trần Mạnh Hảo như trái bom chùm, người không có kỹ thuật, nghiệp vụ táy máy động vào, nổ liền tù tì ngay tức khắc. Thật ra người Việt mình ngại va chạm, dĩ hòa vi quí là chính. Nhất là trong giới văn nghệ, đã có ban tư tưởng dẫn dắt, định hướng, nên những bài phê bình thường chung chung, khen, chê mỗi thứ một chút. Vô thưởng vô phạt như vậy bác nào cũng vui vẻ cả. Trong cái không khí thiu thiu, gà gật như vậy, lại nảy lòi ra cái bác Trần Mạnh Hảo mang bom dội vào, chạm phải vía, nhiều bác nhảy cẫng lên. Điềm đạm, vui là chính như trannhuong.com cũng phải khẳng định, nhà thơ Trần Mạnh Hảo là người thỉnh thoảng tạo nên sóng gió trên văn đàn. Nhưng không riêng tôi, có nhiều người lại khoái cách viết rạch ròi, và đi đến tận cùng sự thật này của TMH. Mà không hiểu, già mõ ra rồi, sức lực ở đâu, ngày, vài ngày bác lại bắn ra một bài. Chưa nói đến đến những kiến thức, suy nghĩ lập luận của bài viết, chỉ cần ngồi gõ lọc cọc ngần ấy con chữ trên máy tính, sức giai tơ chưa chắc đã kham nổi. Em bái phục bác.

Bác Hảo cũng kỳ quặc, sao không nhằm mấy ông nhà thơ đang xuống, hấp hối, về chiều, thuận đà đấm đạp, cho tịt luôn. Bác lại cả gan lôi mớ bòng bong (được gọi là thơ) của Nguyễn Quang Thiều, quan lộ đang lên, được nhiều tổ chức tung hô, ra chọc ngoáy. Đường đường là phó chủ tịch hội nhà văn VN, bị bác Hảo chê, là trường phái thơ tân con cóc, bác Thiều chịu thế chó nào được. Thật là chẳng khác gì sát ớt vào đít nhau. Nhảy cẫng lên thấy kỳ, lý luận với bác Hảo cảm thấy không xong, bác Thiều đành phải chửi độc, theo kiểu mẹ con chị dân quân vùng biển Nam Định, được phong anh hùng bắn rơi máy bay Mỹ, mỗi khi nhà bị mất cắp gà. Quả thật, trong cái mớ chữ lộn xộn này, nếu không thấy tên tác giả Nguyễn Quang Thiều, tôi lại tưởng của người bị bệnh tâm thần, chập cheng viết ra. Ngay cái tựa đề – Sự Mất Ngủ Của Lửa- của mớ chữ này, được coi là hay nhất của Nguyễn Quang Thiều, nó cũng tù mù ngữ nghĩa, tối như đêm ba mươi vậy. Tôi đã đọc Nguyễn Quang Thiều, nhiều bài tôi phải bỏ giữa chừng. Không hiểu sao mỗi lần đọc bài được gọi là thơ của bác Thiều, tôi lại nhớ đến mấy câu(vè) nói về tình trạng thơ hiện nay, vô cùng tục và bậy (trong bài Trò Chuyện Với Hoa Thủy Tiên) của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tôi chỉ dám trích ra đây có một câu, “.. Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại bảo: Dí L.. vào thơ..”

Nhắc đến bác Nguyễn Quang Thiều, làm tôi nhớ đến bài viết của mình, đăng trên báo văn nghệ của hội nhà văn VN,(thứ bảy ngày 13/10/2001). Bài viết hai ý, một về nhà văn Hữu Ước, sau khi đi thăm Nga về, ông có viết một bài ký về cuộc sống người Việt trên đất Nga, được đăng nhiều kỳ trên báo văn nghệ. Mấy ông bạn rượu, từ Nga sang Đức tị nạn đọc, bảo Hữu Ước cỡi ngựa xem hoa, viết không đúng. Thấy giọng văn thông tấn, chẳng có tí tẹo văn học nào ở trong đó, đăng báo ngành đúng hơn, nên tôi đề nghị báo văn nghệ xem lại. Phần này bị bác Hữu Thỉnh thiến mất. Chỉ còn phần viết về, bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, sau khi đi Mỹ cùng với Nguyễn Quang Thiều. Nhưng bác Thỉnh lại biến tên bác Khoa thành ông X, bác Thiều thành ông Y, đọc lên như phương trình toán học vậy. (Không hiểu sao chúng ta cứ hay phải giấu giấu, diếm diếm cái tên do cha mẹ đặt cho như vậy, đó là việc làm không đàng hoàng. Khi tranh luận, các bác hay lủi vào bóng tối, có bác núp cả vào những con số, cứ như điệp viên 007, nghĩ mà thấy kinh. Thật ra vì hoàn cảnh, hay lý do nào đó các nhà thơ, nhà văn buộc phải lấy bút danh. Chứ tôi ít thấy ông nào lấy bút danh mà có văn hay. Tên đã giả làm sao có văn thật được)

Trong bài bác Khoa bốc thơm bác Thiều nói tiếng Anh nghe như người Mỹ. Không biết đây là câu khen đểu, hay khen thật của bác Khoa. Đã du học ở Tây, chắc bác Khoa cũng thừa biết, tiếng Việt ta đơn âm, tiếng Tây âm kép do vậy, chỉ có các cháu sinh đẻ, hoặc từ nhỏ học ở Tây mới phát âm như Tây. Còn dạng sang Cu Ba học tiếng Tây như bác Thiều, chỉ là giọng Tây rau muống mà thôi.

Nhìn lại một cách hệ thống, thơ văn của Trần Mạnh Hảo trải qua gần nửa thế kỷ, ngoài những bài thơ về tình yêu, thiên nhiên đất nước, mảng viết về đề tài xã hội của ông rất quan trọng. Thơ ông gắn chặt thân phận con người và những thăng trầm của xã hội. Sau ngày hòa bình(30-4-75) ông đã chợt nhận ra, đất nước liền một dải, nhưng lòng người đã phân ly. Nhìn dòng người vượt biên đang chết đuối trên biển, con tim ông rung lên cùng cây viết. Bài Cho Một Nhà Văn Nằm Xuống, là một bài thơ hay, xúc động nhất của TMH viết nỗi đau của đồng loại, khi xã hội ngoảnh mặt quay lưng. Đây là đề tài cấm kỵ, nhạy cảm, vô cùng nguy hiểm của những năm đầu thập niên tám mươi, Trần Mạnh Hảo là một trong số rất ít các nhà văn dám viết:

“…Bãi biển Vũng Tầu đầy những xác chết trôi

Những người Viêt Nam vượt biên chết chìm trên biển

Những em bé

Những người đàn ông

Những người đàn bà

Chết rồi còn giơ tay cầu cứu

Chết rồi còn quờ tay tìm lối thoát

Đâu nhà văn, đâu người cầm bút

Sao nỡ để nhân vật của mình

Chết trôi chết dạt

Biển ơi! Nỡ vô tình

Như ngàn trang sách

Những tay sóng kia, sao không vuốt mắt

Cho những nhân vật của chúng ta?…”

Và đây là một câu hỏi, và lời tự trách, hay một bản án dành cho mỗi con người và xã hội này. Một xã hội vô trách nhiệm, giả dối, thiếu tình người.

“…Biển không nhận

Bờ không nhận

Những trang sách không nhận

Không ai nhận những con người

Ở thời đại mình đang sống?..”

Có lẽ là người sinh ra và lớn lên từ biển, nên Trần Mạnh Hảo hiểu, yêu biển hơn ai hết. Bài nào viết về biển của ông cũng hay, trong thơ như có ngàn ngọn lửa hun đúc từ linh hồn, khí phách ngàn đời của cha ông. Nếu Tổ Quốc Tôi Không Còn Biển là một trong những bài thơ khí phách cao độ nhất, mỗi khi biển, “Tổ Quốc nguy nan/mỗi người Viêt Nam/ hóa thành cọc nhọn” đâm nát quân thù:

“…Nếu Tổ Quốc không còn biển

Dân tộc tôi sẽ chết đuối trên bờ

Chết đuối trên cao nguyên

Chết đuối trong bùn boxit

Tổ Quốc không chịu chết

Biển Đông gầm hóa Bạch Đằng Giang”

Trên đây là một vài cảm nhận về linh hồn, khí phách trong thi ca của hai nhà thơ mà tôi yêu thích, Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo. Nếu bác nào thích, đồng cảm cứ cho thằng em một lời khen. Bác nào không thích xin cứ việc chửi, nhưng xin các bác đừng chửi độc địa như Nguyễn Quang Thiều chửi nhà thơ Trần Mạnh Hảo.

Đức Quốc ngày 26-6-2012- Đỗ Trường

Tác giả gửi cho NTT blog
(từ blog Nguyễn Tường Thụy)

Monday, June 25, 2012

Chơi Kiểu Tàu Lạ Biển Đông

Chơi Kiểu Tàu Lạ Biển Đông: Thầy Lang Tàu Vào SG Quậy





SAIGON (VB) -- Ngày 15/6 vừa qua, chồng một bệnh nhân đã gọi đến báo Tuổi Trẻ nhờ “giải cứu” vợ anh bị Phòng khám bệnh y học Trung Quốc (141 Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận, TP Sài Gòn) “giam lỏng” từ ngày 10/6 trong khách sạn Sơn Lâm (139/2 Phan Đăng Lưu, PN) phía sau phòng khám. 


Theo bài tường thuật trên báo TT, nguyên chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (34 tuổi, ở Thủ Đức) và chồng chung sống đã 6 năm mà chưa có con. Gần đây, xem trên truyền hình thấy phòng khám này quảng cáo có thể chữa được bệnh vô sinh nên chị Hạnh đã cẩn thận gọi điện trước hỏi bệnh của mình trị tốn bao nhiêu tiền. Nghe nhân viên phòng khám trả lời tùy từng loại bệnh nhưng chỉ tốn khoảng “vài trăm ngàn đồng”, sáng 10/6 chị Hạnh tìm đến đây chữa bệnh. Khi khám xong bác sĩ đưa ra 4 mức giá điều trị thì do không khá giả, chị Hạnh chỉ chọn mức thấp nhất là hơn 17 triệu đồng. Nhưng bác sĩ nói bệnh của chị phải chọn ở giá cao nhất là hơn 35 triệu đồng mới tốt. Khi chị Hạnh nói không có tiền trả giá cao thì bác sĩ lại nói cứ yên tâm điều trị, mai mốt về lấy tiền trả sau. Nghe vậy chị Hạnh mới điền tên, tuổi mình vào một đơn xin gia hạn thanh toán viện phí. Đơn này in sẵn chữ “Do bệnh tình nghiêm trọng cần phải tiến hành điều trị ngay, nhưng tạm thời chưa mang đủ tiền, nay xin văn phòng khám bệnh y học Trung Quốc cho phép gia hạn thanh toán phí điều trị. Kính mong phòng khám xem xét và chấp nhận”. 

Thế nhưng, thực tế phòng khám tính tiền lên đến gần 39 triệu đồng, gồm những khoản phải trả là: “Điều trị viêm loét cổ tử cung 19,800,000 đồng, trị liệu u nang cổ tử cung 8,800,000 đồng, kiểm tra thông ống dẫn trứng không đau 6,800,000 đồng, truyền thuốc 1,560,000 đồng, soi máy CT 30 phút 2,000,000đồng - Tổng cộng: 38.960.000 đồng”

Chồng chị Hạnh phải xoay xở đủ cách, tháo cả chiếc nhẫn đang đeo ở tay nhờ người bà con bán giùm mới đóng được cho phòng khám này gần 12 triệu đồng.

Phòng khám Trung Quốc chơi kiểu tàu lạ.(Photo VB)

Sau đó, bác sĩ chích thuốc loại gì chị Hạnh không nhớ (giá 2 triệu đồng/mũi). Bác sĩ chích thuốc cho chị được 2 ngày, thấy chị hết tiền nên không chích gì nữa. Những ngày sau, chị Hạnh bị “giam lỏng” chứ không được điều trị gì thêm. Nhiều lần chị Hạnh năn nỉ xin được về nhà để chạy tiền đóng nhưng bác sĩ nhất quyết không cho. Sau nhiều ngày thấy chị Hạnh khóc lóc, thậm chí không có tiền để ăn cơm, phòng khám mới giảm viện phí xuồng còn 20 triệu đồng. 


Ngày 15/6, gia đình chị Hạnh có báo công an về vụ việc này nên giám đốc phòng khám đã đến gặp chị Hạnh và nói sẽ giảm viện phí tiếp, tức là nộp 6 triệu đồng nữa sẽ được về.


Ngày 16/6, vờ nhận là người nhà bệnh nhân , phóng viên TT mới được cùng chồng chị Hạnh vào khách sạn Sơn Lâm gặp chị ở phòng 401. Gương mặt còn thất thần sau nhiều ngày bị “giam lỏng”, chị Hạnh kể luôn có nhân viên theo dõi chị và xuống tầng trệt thì đã có người chặn ngay ở cổng, không cho ra. Không có tiền nên nhiều ngày chị chỉ được phòng khám cho ăn một bữa cơm. Chị lo lắng, khóc suốt, năn nỉ mãi nhưng cũng không được cho về.


Chiều ngày 16/6, chị Hạnh được phòng khám cho về và lập tức chị đến Công an P.2, quận Phú Nhuận viết đơn tường trình sự việc. Công an P.2 sau khi lấy lời khai của chị Hạnh đã cử hai cán bộ cùng vợ chồng chị Hạnh đến làm việc với người có trách nhiệm của phòng khám. 


Tại đây, theo bài báo ghi nhận, ngoài người thư ký kiêm phiên dịch còn có người quản lý chi nhánh phòng khám bệnh y học Trung Quốc (141 Phan Đăng Lưu, Phú Nhuận) tên Hoa và bác sĩ Dương Diễm Hồng, người trực tiếp điều trị cho chị Hạnh. 


Khi đề nghị ông Hoa cho xem giấy phép phòng khám thì được trả lời sẽ cung cấp sau. Khi hỏi bác sĩ Dương Diễm Hồng có giấy phép hành nghề tại phòng khám này không thì cũng được trả lời sẽ cung cấp sau. 


Trả lời câu hỏi vì sao phòng khám không có giường điều trị nội trú nhưng lại giữ bệnh nhân ở lại điều trị, bà Diễm Hồng cho rằng do bệnh nhân mới điều trị không nên đi lại nhiều nên phòng khám có thuê khách sạn cho bệnh nhân ở, để hằng ngày qua phòng khám điều trị cho tốt.


Theo Công an P.2 quận Phú Nhuận, đây không phải là lần đầu tiên công an phường tiếp nhận đơn thư phản ảnh của bệnh nhân về phòng khám này mà đã có 4-5 trường hợp tương tự. 


Và trong bài báo tiếp theo trên TT cũng về cách làm ăn sai trái của phòng khám bệnh y học Trung Quốc (141 Phan Đăng Lưu, Phú Nhuận), trường hợp chị Vạn Thị Thu Đậm (32 tuổi, ở Ninh Thuận) càng bức bối hơn. Nguyên ngày 4/6, vợ chồng chị Đậm lặn lội vào Sài Gòn để tìm đến phòng khám này. Ở đây nói chị bị loét tử cung, không điều trị sẽ bị ung thư. Hỏi điều trị bao nhiêu tiền, khi nào hết bệnh, bác sĩ Trung Quốc đưa ra 3 giá điều trị: 30 triệu đồng thì 20 ngày hết bệnh, 25 triệu: một tháng mới hết bệnh, 15 triệu thì một tháng rưỡi khỏi bệnh. Vợ chồng chị Đậm nói không có nhiều tiền, bác sĩ “dụ” cứ ký vào đơn xin gia hạn đóng viện phí rồi về nhà mượn tiền trả sau. Chị Đậm đóng ngay 6 triệu đồng và phòng khám đưa chị sang khách sạn Sơn Lâm. Qua đây, chị bị canh giữ 24/24 giờ, không cho đi đâu. Muốn về thì “phải đóng hết tiền”.


Gia đình chị Đậm lại báo Công an P.2, Q.Phú Nhuận nhờ can thiệp, sau đó phòng khám giảm cho chị Đậm một nửa tiền. Gia đình chị Đậm phải mượn xe máy của người quen mang đi cầm để có 14,850,000 đồng đóng cho phòng khám và ngày 8-6 mới được “thả” ra. Thoát được phòng khám này, chị Đậm đến Bệnh viện phụ sản Từ Dũ khám bệnh, các bác sĩ ở đây cho biết chị không hề bị viêm loét tử cung. Cả tiền khám, tiền thuốc ở BV Từ Dũ chỉ hết 200,000 đồng.


_________________________________________







VN 'bắt nhà hoạt động giúp tỵ nạn Bắc Hàn'

Cập nhật: 09:34 GMT - thứ hai, 25 tháng 6, 2012
Máy bay chở người tỵ nạn Bắc Hàn từ Việt Nam tới Seoul năm 2004
Hàng trăm người đã tới Hàn Quốc từ Việt Nam
Các hãng thông tấn đưa tin một nhà hoạt động Hàn Quốc chuyên giúp người tỵ nạn Bắc Hàn đào tẩu vừa bị bắt hồi tuần trước tại TP. Hồ Chí Minh.
Hãng tin Pháp AFP dẫn nguồn Bộ Ngoại giao Hàn Quốc nói người này bị giới chức Việt Nam bắt vì giúp người Bắc Hàn chạy tới Nam Hàn qua con đường Việt Nam.
Phát ngôn viên của bộ này nói với AFP rằng người đàn ông họ là Yoo, 51 tuổi, bị "nhân viên an ninh" bắt tại một khách sạn ở TP Hồ Chí Minh vào thứ Tư tuần trước 13/6.
Trong khi đó, thông tấn xã Hàn Quốc Yonhap, dẫn lời quan chức sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội, xác nhận ông Yoo bị bắt vì "công việc giúp người tỵ nạn", nhưng không rõ chính xác là công việc gì.
Cho tới nay, chính phủ Việt Nam chưa đưa ra lý do cho vụ bắt ông Yoo vì quá trình điều tra còn tiếp diễn.
Bộ Ngoại giao Hàn Quốc cũng đã yêu cầu được phỏng vấn ông.
Các kênh chính thức của Việt Nam không hề có tin tức gì về vụ bắt giữ này.

Rắc rối ngoại giao

Hàng chục nghìn người Bắc Hàn đã bỏ trốn trong những năm qua vì đói kém và bị trấn áp.
Hàn Quốc là đích đến của đa số, tới nay con số người Bắc Hàn đào tẩu xuống miền Nam đã lên tới trên 20.000.
Tuy nhiên để đến được Hàn Quốc, người Bắc Hàn thường phải qua một hay nhiều nước thứ ba khác, như Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á.
Từ khi Trung Quốc siết chặt quản lý biên giới và trục xuất tất cả người tỵ nạn Bắc Hàn bắt được tại nước này, dòng người tỵ nạn chuyển sang các nước phía Nam, trong đó có Việt Nam, gây khá nhiều rắc rối về ngoại giao.
Năm 2004, khoảng 400 người tỵ nạn Bắc Hàn đã được chuyển từ Việt Nam tới Hàn Quốc trong một sự kiện thu hút nhiều chú ý.
Việt Nam không muốn tạo tiền lệ trở thành điểm trung chuyển của người tỵ nạn Bắc Hàn, và cũng không muốn gây căng thẳng với Bình Nhưỡng.
Thế nhưng Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều vào Việt Nam, và Hà Nội cũng muốn giữ quan hệ tốt với Seoul.
Đa phần các cuộc đào tẩu của người Bắc Hàn đều có sự liên quan giúp đỡ của các nhà hoạt động Nam Hàn.

theo BBC

NÓI VỚI VIỆT KIỀU


Tác giả Chung Mốc hiện đang cư trú tại Thủ Đức, Việt Nam, gửi bài qua một thân hữu chuyển đến. Trước 1975, tại miền Nam, ông là một nhà giáo, một huynh trưởng hướng đạo sáng giá. Bài viết của ông, như tựa đề, viết theo cách nhìn của bà con quê nhà nhìn những Việt kiều Mỹ khi họ về thăm lại quê quán.

 


Tháng Năm, nóng toé khói.

Ai đã từng đi xa quê hương đều ước mong có dịp trở về, hoài niệm làm người ta xao xuyến đến cháy lòng. Tìm về từ vật chất đến tinh thần, để thấy những cái tưởng mất đi vĩnh viễn nay lại tìm gặp, cái xưa tầm thường nay trở nên quí giá.

Tôi may mắn thường có dịp đón tiếp thân nhân cùng bạn bè về thăm nhà, nhận thấy song song với nỗi vui mừng khi tái ngộ, còn có vài điều tưởng giữa chúng ta, TA và TÂY tự điều chỉnh, để ngày sum họp niềm vui thêm trọn vẹn.

Tôi nhận thấy có mấy dạng Việt Kiều:

1. Người giàu (Có lẽ là giàu thật) quan niệm đi 5 về 10, xênh xang áo gấm về làng, họ hàng cũng được thơm lây. Hàng xóm có lòng đố kỵ cho là nổ : Hồi xưa nghèo không có đôi dép mà đi, giờ tha đi đâu cũng kè kè chai nước lọc, vô nhà ai cũng không dám uống nước dù là nước trà; nước giếng, nước mưa thì chê hôi. Họ đâu còn nhớ tới những ngày kinh tế mới, những ngày đi đào kinh thuỷ lợi nghiêng nón múc một ít nước đục ngầu mà uống. Bây giờ cứ đòi vào nhà hàng máy lạnh sang thiệt là sang để ăn uống cho an toàn khỏi sợ đau bụng, nhưng nếu họ chịu quá bộ ra chỗ đang rửa chén tô, nơi nhà bếp đang lặt rau, làm cá băm thịt, thì tưởng chưa có nơi nào mất vệ sinh hơn thế nữa !. Tôi lấy làm ngạc nhiên và hãnh diện khi người mình mới qua tới xứ người, người lâu thì vài ba chục năm, người mới thì chỉ năm hay mười năm mà nay ai cũng là bác sĩ, kỹ sư, chủ hãng chủ tiệm, tiếng Tây tiếng Mỹ phun phèo phèo, mà hình như không có ai làm thợ hết cả (?). Nếu quả thực như thế thì Mỹ trắng Mỹ đen quá kém, nay họ lại phải xin đi làm công cho người mình nhiều quá, chứ như ở VN mà mấy anh Campuchia qua đây lập nghiệp, không chịu làm cu ly khuân vác từ đời cha tới đời con thì cũng còn khuya mới ngóc đầu lên nổi. Có người qua Mỹ đã lâu nhưng còn e ngại vì tài chánh eo hẹp chưa muốn về thăm quê, vì ngoài tiền vé máy bay ra, còn tiền quà cáp, xe cộ tiêu xài. Nhưng họ đâu biết rằng có tiền cho thân nhân đã quí, nhưng gặp lại người thân sau bao nhiêu năm xa cách còn quí hơn nhiều lắm. Vẫn biết rằng trong đám thân nhân "yêu vấu" kia thế nào cũng có người nói xấu sau lưng: "Việt Kiều về quê mà Trùm Sò thế thì về làm quái gì". Cũng may số người này không nhiều.

2. Người nghèo (Có thể là nghèo giả) than van quá trời vì sợ người nhà vòi tiền, mà có người vòi tiền thật, mè nheo đủ thứ. Họ không chờ cho đến khi gặp mặt mà thư, điện tới tấp khiến mẹ cha, anh em con cái phát chán, vì người ta biết tiền gửi về sẽ bị tiêu pha một cách lãng nhách bởi những người chuyên vô công rỗi nghề, từ sáng tới tối xách xe chạy vòng vòng. Thái độ và cử chỉ bên TÂY thì lịch sự nhã nhặn, cưng chiều vợ con hết mức (theo kiểu nịnh nghề bà lắm nạc) khiến phe TA ở quê nhà xốn con mắt lắm. Nhưng khốn nỗi TA lại cộc cằn thô lỗ, gia trưởng y như xưa, y như cách đây hàng thế kỷ. Hôm nay nhà có cơm khách, khách hỏi:
- Còn các cháu đâu, không ra dùng cơm luôn thể?
- Các bác cứ xơi tự nhiên, các cháu đã có rồi.
Các bác đang xơi, các cháu thập thò ở cửa, Bố quát:
- Xuống bếp ăn với mẹ!
Đứa con giơ tay lên trời:
- Xin thề là dưới bếp hết cả nước lẫn cái rồi bố ạ!!!

*

Bên TÂY gặp nhau ôm hôn chùn chụt, bên TA mà làm thế có ngày chả còn răng ăn cháo. Hôm anh tôi về, thấy mấy trự Việt Kiều gặp người đi đón ở phi trường, lợi dụng cơ hội ôm hôn tùm lum, ảnh nói có nhiều người làm trò khỉ quá.

Rồi sau đó ít hôm ảnh lại nói sao Việt Kiều về cứ phải chứng tỏ mình là Việt Kiều cho oai, lúc nào cũng thấy đeo cái túi mề gà trước bụng, đàn ông lại còn mang quần có dây đeo vai cứ như mấy anh bồi nhà hàng. Họ nói chuyện với nhau hay với con cái cứ xổ tiếng Mỹ làm người nhà phải nghệt mặt ra. Mà làm như thế nghĩ cũng chả ích lợi gì, chỉ tổ cho nhà hàng chém thẳng tay.

Việt Kiều thường phê bình người trong nước đổ đốn, không chịu làm gì cả chỉ ăn nhậu. Nói của đáng tội, cái đó cũng có nhưng vì họ chưa có cơ hội tiếp xúc với những Giám Đốc trẻ không rượu bia thuốc lá; có trách nhiệm, năng lực và lòng tự trọng; những người thợ quần quật với công việc nặng nề; những nông dân chân lấm tay bùn đã làm nên những thay đổi và ấm no hơn những ngày cũ.

*

Việt kiều lớn đã thế còn Việt Kiều con, tụi nhỏ về đây gặp khí hậu, thời tiết khác lạ, ăn ngủ trái múi giờ dễ sinh ra dị ứng ốm đau, làm ông bà cha mẹ lo sốt vó.

Thái độ tụi nó cũng kỳ dị lắm, hình như nó không thích được nâng niu âu yếm, đụng vào người là nó co rúm lại, mà người mình có thương thì mới rờ rẫm bóp mông, bóp đít khen nó mập, trắng hồng coi dễ thương hết sức. Ban đầu tôi tưởng tụi nó chê mình ở bẩn, nhưng sau này mới biết là làm vậy không nên, nếu là ở Mỹ có thể bị kết tội child abuse gì đó.

Tụi nhỏ nói tiếng Việt không rành, nó ú ớ bảo là đau bụng, đưa thuốc cho uống cả tiếng sau mới nói là nó "wrong", nó bị đau cổ họng cơ. Có nhiều đứa lý sự và phá trời thần, trẻ con VN mà nói tay đôi với người lớn thế thì có mà nát đít, còn trẻ Việt Kiều nó được tự do tranh luận nếu nó nhận thấy người lớn nói sai. Về VN mà nó làm cứ như ở nhà nó, cái máy quay phim, dàn máy hát ở quê nhà quí lắm, dành dụm biết bao lâu mới mua được, nhưng con cháu Việt Kiều về xài rồi nó quăng vất tứ tung, chọc ghẹo nhau chạy tới chạy lui làm đổ dàn am-pli, cả nhà thấy xót quá mà không ai dám nói gì!

Nói sang cái ăn mới ngộ, đãi Việt Kiều ở nhà hàng, TA ép TÂY ăn thịt.

TÂY than thở: "Tại sao lại ép chúng tôi những thứ mà hàng ngày phải ăn mấy chục năm nay?". Không lẽ kêu măng luộc, rau đay cua rốc, cà pháo mắm tôm, rau muống xào đập tỏi v.v...Những thứ đó quê tôi có đầy ra, bước ra đàng sau vườn loáng một cái có cả rổ, bây giờ thường để cho heo ăn mà thôi, ai nỡ lòng nào đem ra đãi Việt Kiều.

Việt Kiều con thì khác hẳn, vào bàn nó ngồi im như tượng, mặt buồn như Đức Mẹ Sầu Bi ngồi dưới chân thánh giá, hỏi ăn gì thì chỉ lắc đầu. Thấy mấy ông kêu đồ nhậu rắn rùa, chim chuột ... đặc sản, nó chỉ con thạch sùng (thằn lằn) trên tường mà hỏi: "Con đó có ăn không ?"

Người lớn thích ăn tiết canh, mua con heo, con vịt về cắt tiết hay thọc huyết, nhìn thấy cảnh đó nó kinh hãi ôm nhau khóc thét lên. Còn về thịt cầy, nó dặn là đừng bao giờ đánh lừa nó ăn một miếng, bởi vì ăn thịt chó, tim sẽ đau đớn như phạm tội vậy. Về tới SG thả tụi nó vào khu siêu thị thì như cá gặp nước, tụi nó hoạt bát hẳn lên, nói líu lo vì trong đó có bán đồ ăn khoái khẩu của nó.

Ở quê tôi còn có một thứ mà mỗi nhà có Việt Kiều về thăm thì phải lo trước, đó là cái bàn cầu ngồi theo lối Mỹ, nhà cầu kiểu cũ trẻ con ngồi không quen cứ ngã bổ chửng ra. Nhớ hồi cách đây hơn 10 năm, cầu cá dồ chưa bị cấm, có ông Việt Kiều đang ngồi thì bị cầu sập, ông đứng giữa đìa khóc ầm lên kêu Trời kêu Phật, kêu cả thánh quan thầy.

Một cái đáng sợ nữa cho Việt Kiều là muỗi. Xưa kia muỗi chỉ có mùa, bây giờ nhờ kinh tế thị trường nên có quanh năm, nó lại theo trào lưu khủng bố của thế giới nên không kêu vo ve nữa mà chuyên âm thầm đánh du kích, cắn xong một phát là chỗ đó ngứa không chịu nổi. Đối với người trong nước không hiểu vì đã chịu muỗi chích hoài nên cơ thể quen nọc ngứa, hay là tại vì thịt Việt Kiều thơm (tắm bằng xà bông Dove), hay tại muỗi vẫn còn thù dai đối với Đế Quốc, mà cho dù là ban ngày sáng sủa đàn muỗi không cắn ai, lại cứ xà quần bên Việt Kiều như đàn trực thăng sắp đổ quân vậy.

Đi với Việt Kiều nhí thì thật là thê thảm, cho dù bôi thuốc chống muỗi rồi đó, nhưng dính mũi nào là làm độc mũi đó, có khi mưng mủ sưng to như trái chùm ruột. Tôi có đứa cháu kiên nhẫn ngồi đếm được 108 mụn trên một cái chân nhỏ bé !!!

Còn trục trặc ngôn ngữ Việt giữa người trong và ngoài nước nữa chứ. Có nhiều Việt Kiều nghe không hiểu được những từ ngữ "mới". Hồi sau 75 tôi có dịp tiếp xúc với cán bộ hay người miền Bắc mới vô, nghe họ nói tôi buồn cười lắm mà không dám cười, sau đó nhái chơi, rồi dần dần nó ngấm vào giọng nói lúc nào không hay, bây giờ có những chữ mà loay hoay mãi không nhớ ra chữ cũ để thay thế.
Thí dụ: Hôm nay tôi tranh thủ đến thăm anh (cố gắng). TV hôm nay bị sự cố kỹ thuật (trục trặc). Nhưng đến câu "Họ có mặt bằng cho thuê" thì tôi đành chịu không tìm ra chữ nào để thay.

Có anh về nước cầm máy chụp hình hay quay phim thì thấy cái gì hơi lạ là bấm máy liên hồi, thấy người ta nói đi xe khách chất lượng cao (high quality); xe tham quan (tourist); cửa hàng chuyên bán ổn áp (survolter) là cười khinh khỉnh, nhưng chúng tôi thấy họ nói pha tiếng Mỹ lại càng kỳ quái hơn: Đem cái xe tới tiệm để estimate, anh thợ sửa xe dốt nát đâu biết tiếng Tây tiếng U gì đâu, nghe vậy bèn tháo tung chiếc xe ra; bảo tun-ấp thì nghe giống như "ốc" nên lấy đồ nghề ra siết tất cả những con ốc lại. Đàn bà con gái gì mà nói giữa chốn đông người "Tôi không có khe" (care); "Vẫn còn ở chỗ cũ đây, chứ tôi đâu có mu (move)". Cười, bởi vì khe và mu là những chữ dùng để chỉ cơ quan sinh dục của đàn bà.

Có lần được tháp tùng về thăm quê cũ của mẹ tôi ngoài Bắc, gặp đứa em họ đang phụ trách một đoàn thể trong xứ đạo, nó hỏi xin cái máy kích. Tôi hỏi cần đẩy hay kéo cái gì, nó giải thích thì ối giời ơi! đó là cái am-pli và cặp loa để phát thanh, ở ngoài Bắc gọi là cái máy kích âm !!!. Bây giờ họ còn hay nói tắt. Hỏi gia đình thế nào? Trả lời dạo này gia đình chúng em VẤT lắm (vất vả); Món này ăn ngon CỰC (cực kỳ); Thợ xây quát phu hồ: "Lấy cho tao bao Xi (xi măng) !!!

Chữ "bị" ở thế thụ động (passive voice) lại được nói: "Ông ta hơi bị giỏi đấy" ; Món này ăn hơi bị ngon v.v... Ban đầu tôi tưởng chỉ là cách dùng chữ cho khôi hài, không ngờ có những nhà văn lớn dùng trong văn chương nghiêm túc nữa đấy. Thật quái đản !!!

Hôm xem lậu cuốn băng Thuý Nga, thấy ông Nguyễn Ngọc Ngạn nói xỏ người ở nước ngoài hay nói chữ là, thay vì nói "Rất đẹp" thì lại nói "Rất là đẹp". Tôi thì tiếng Anh dốt nát, đành dịch ra là "Very is beautiful"!. Ngày xưa còn đi học mà làm luận văn xài chữ: thì, là, mà, bị v.v... lung tung như kiểu này chắc thầy vã cho rách mép. Ở VN bây giờ từ quan cho tới anh cùng đinh khố rách đều nghiện chữ "Nói chung" cũng như mấy anh Việt Kiều hay dùng chữ "You know" vậy. Hỏi thăm gia đình khoẻ không thì được trả lời: "Nói chung cũng tốt. Mẹ tôi còn đang nằm bệnh viện còn vợ tôi thì mới chết tuần rồi". Hãy nghe đài BBC phỏng vấn mấy quan chức, hay đọc trong bản báo cáo của mỗi cơ quan, đoàn thể, mỗi ngành không bao giờ thiếu chữ "Nói chung":

- Tình hình chỗ nào cũng vậy, nói chung là tốt, nhưng trong đó còn có một vài bộ phận yếu kém tồn tại ...

Tôi tới thăm gia đình người bạn mới từ nước ngoài về, bố bảo con gọi mẹ ra đây. Thằng con chạy vào trong hét toáng lên: "Momy, dady muốn momy bây giờ". Hồi lâu sau nó lại chạy ra bảo: "Momy đang rửa he". Tôi ngạc nhiên ngẫm nghĩ mãi mới hiểu là má nó đang gội đầu (hair).

Tháng rồi có mấy đứa cháu từ Úc về chơi, tôi dẫn đi ăn nghêu ở Ngã Sáu, trong đĩa nghêu luộc chín há vỏ ra, có con thịt rớt ra ngoài chỉ còn cái vỏ không, đứa bé cầm cái vỏ ngắm nghía một hồi rồi tặc lưỡi: "Không có ai". Ôi ngôn ngữ Việt của Việt Ta và Việt Tây sao mà rắc rối, biến hoá làm vậy!

Ngày vui qua mau rồi cũng đến ngày tiễn đưa người nhà ra phi trường. Người còn ở VN khoái tiễn đưa lắm, lý do là lúc đó người đi rất ngậm ngùi, còn bao nhiêu tiền trong túi cũng móc ra cho hết, thương lắm cơ.

Việt Kiều con ra tới phi trường thì mừng lắm, chúng nhảy cỡn lên múa máy tay chân rồi la to:
- Thoát khỏi Việt Nam rồi! Thoát Việt Nam rồi!

Vậy thì tôi còn mong gì khi chúng to lên, học hành thành tài rồi về giúp đỡ quê hương?

... he he he !!!


________________________________________