Saturday, June 14, 2014

THẾ NÀO LÀ CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ! CÁI LŨ BÁN NƯỚC... MÃI QUỐC CẦU VINH!

Những tài liệu mà Trung Quốc đã trích dẫn này là có thật

Ts Nguyễn Công Trục

Ngày 9/6, Vương Dân, Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư cho Chủ tịch HĐBA LHQ kèm theo cái gọi là "chứng cứ" Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc. "Chứng cứ" này bao gồm Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…xuất hiện vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. 


Những tài liệu mà Trung Quốc đã trích dẫn này là có thật. Tuy nhiên, nội dung của các tài liệu này cụ thể ra sao và giá trị pháp lý của chúng như thế nào? Đó là những câu hỏi  cần được phải làm sáng tỏ trên tinh thần thật sự khách quan, trung thực, cầu thị…:

Thứ nhất, xin nói về hình thức của các tư liệu này:

Tài liệu đầu tiên mà Trung Quốc thường xuyên nêu lên trong tất cả các lập luận về cái gọi là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng thừa nhận “chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa, Nam Sa”. Thực chất đây chỉ là bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho cố Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 có liên quan đến Tuyên bố quy định về chiều rộng lãnh hải 12 hải lý của CHND Trung Hoa; hoàn toàn không phải là “Công hàm” như phía Trung Quốc đã nhấn mạnh.

Các tài liệu khác như Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…thực chất đây là những tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu, học tập…

Ngoài ra, còn có một số nội dung khác đã được trích dẫn chủ yếu là những cuộc  trao đổi, phát biểu cá nhân  của một số cán bộ ngoại giao trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thứ 2, nói về nội dung của các tài liệu này:

Nội dung bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Căn cứ vào câu chữ của bức thư này thì rõ ràng không hề có  một câu chữ nào đề cập đến “Tây sa”, “Nam Sa”:… “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”
Nội dung các tư liệu khác đúng như những gì mà Trung Quốc đã dẫn.

Lá thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi người đồng cấp Chu Ân Lai năm 1958 không phải "Công hàm" như Trung Quốc suy diễn, và cũng không có câu chữ nào đề cập đến cái gọi là "Tây Sa", "Nam Sa".
Thứ 3, nói về hoàn cảnh ra đời của những tài liệu này:

Xin lưu ý rằng tất cả các tài liệu nêu trên  đều xuất hiện vào thời điểm trước những năm 70 của thế kỷ trước. Đó là thời điểm mà tình hình trong nước và  quốc tế về chính trị, ngoại giao, pháp lý… mang những nét đặc thù liên quan rất lớn đến giá trị pháp lý của các tư liệu nói trên, cụ thể là:

Đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chủ thể bình đẳng trong quan hệ quốc tế, có trách nhiệm quản lý lãnh thổ ở 2 niềm Nam, Bắc, được phân chia bởi vỹ tuyến 17 theo quy định của Hiệp định Geneve 1954.

Sau một thời gian dài, cả dân tộc Việt Nam, bất kể già trẻ trai gái, không phân biệt quan điểm chính trị, thành phần giai cấp…đều dốc lòng, dốc sức cho cuộc kháng chiến chông ngoại xâm, giành quyền độc lập, tự do, hạnh phúc…bằng nhiều phương thức có lợi nhất cho công cuộc kháng chiến cứu quốc, chống giặc ngoại xâm…Trong hoàn cảnh đó, sau khi hòa bình được lập lại, biết bao khó khăn bộn bề mà cả chính thể  2 miền Nam Bắc đều phải tập trung ưu tiên giải quyết… Cũng cần phải nói một cách thẳng thắn rằng những nội dung liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền  2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cả trên thực địa và trên mặt trận đấu tranh ngoại giao pháp lý, cũng còn nhiều bất cập, thậm chí còn có những sơ suất, sai sót…Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng điều này không phải xuất phát từ ý thức, mà chủ yếu là từ thực lực, nhận thức, hiểu biết...do thiếu thông tin hoặc thông tin không được cập nhật và tập trung.

Ngoài ra, có vấn đề không thể không đề cập đến khi nghiên cứu, đánh giá những nội dung nói trên; đó là những chủ trương, chính sách của các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc trong khu vực và quốc tế, trước những thay đổi về địa-chính trị, địa- chiến lược, địa-kinh tế…trong khu vực có liên quan đến vị trí, vai trò của 2 quần đảo này giữa Biển Đông. Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…

Xuất phát từ bối cảnh chính trị đó, sự xuất hiện các tài liệu nói trên, thậm chí có cả những hành động không làm tròn được sứ mệnh bảo vệ, quản lý trên thực tế quần đảo Hoàng Sa và một số đảo trong quần đảo Trường Sa cũng là điều có thể lý giải được…

Thứ 4, những tài liệu Trung Quốc dẫn ra hoàn toàn không có giá trị pháp lý

Dưới ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ và theo cách nhìn nhận đánh giá của giới luật gia, luật sư, chúng ta hãy xem xét giá trị pháp lý của các tư liệu này: Có phải đó là bằng chứng có giá trị  pháp lý chứng minh rằng Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, hay nói một cách khác, các tài liệu này có phải là những bằng chứng chứng minh rằng Nhà nược Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền của mình đối Hoàng Sa, Trường Sa hay không? Câu trả lời là không. Vì sao?

Phải khẳng định rằng, cho dù nội dung của các tư liệu nói trên có nói đến “Tây Sa và Nam Sa của Trung Quốc” thì chúng cũng chỉ là những tư liệu vô giá trị pháp lý trước ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, bởi vì:

Chúng chỉ là những tư liệu, những phát biểu cá nhân, không phải là những văn bản quy phạm pháp luật được phê chuẩn bởi Cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc bởi những tổ chức, cá nhân được ủy quyền đại diện hợp pháp cho Cơ quan quyền lực đó.

Vào thời điểm đó, đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý lãnh thổ đối với 2 quần đảo này theo quy định của Hiệp định Geneve là chính quyền miền Nam Việt Nam, lúc đầu là Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, kế đến là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho dân tộc Việt Nam tiếp quản chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ Cộng hòa Pháp chờ ngày tổng tuyển cử hòa bình theo Hiệp định Geneva 1954.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có trách nhiệm nghĩa vụ pháp lý trong việc bảo vệ quản lý vùng lãnh thổ ở phía Nam vỹ tuyến 17. Đó là một thực tế pháp lý rõ ràng, không thể chối cãi được, cho dù về mặt chính trị, tư tưởng, quan hệ ngoại giao, có thể có lúc, có nơi, chính thể Việt Nam Cộng hòa đã bị lên án, phủ nhận…Nhưng đó lại là chuyện khác, chuyện chính trị, ý thức hệ, lập trường giai cấp. Mà chuyện chính trị, tư tưởng, ý thức hệ không có giá trị phủ nhận, chối bỏ những quy định pháp lý trong quan hệ quốc tế.

Trong thực tế, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.

Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

Và để chứng minh vai trò của Chính quyền miền Nam với tư cách là đại diện hợp pháp cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý chủ quyền, lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa  như thế nào, chúng tôi xin trích dẫn các sự kiện quan trọng và có ý nghĩa say đây:

Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chông lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Theo Hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp dựng nên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông , trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới (OMM: Organisation Mondiale de   Meteorologie) đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số 48419.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký với cựu hoàng Bảo Đại Hiệp định Hạ Long, trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại, tháng 4, Hoàng thân Bửu Lộc, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.

Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.

ừ 5 tháng 9 đến 8 tháng 9 năm 1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng, ngày 5 tháng 9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận đã bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung : Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam .
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt nam: “et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les  germes de discorde, nous affirmons nó droits sur les iles de Spratley et de Paracel qui de tout temps ont fait partie du Vietnam”. Không một đại biểu nào trong Hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước đã ghi rõ: “Nhật bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly”(khoản f).

Tháng 4 năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Công hòa, đã ra tiếp quản  nhóm  phía Tây quàn đảo Hoàng Sa của Việt nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.

Ngày 22 tháng 8 năm 1956, Tàu HQ04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ quyền, dựng cờ, bảo vê quần đảo trước hành động  xâm chiếm trái phép, vi phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Philippines.

Ngày 20 tháng 10 năm 1956, bằng  Sắc lệnh 143/VN Việt Nam Cộng hòa đã đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.

Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã có quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa; ngày 27 tháng 6 năm 1961, bổ nhiệm ông Hoàng Yêm giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa. 
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, VNCH sáp nhập  quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, VNCH ban hành Nghị định 809 –NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ chức phái viên hành chính xã Định Hải (Hoàng Sa), quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.  

Ngày 21 tháng 10 năm 1969, bằng Nghị định số 709-BNV-HCĐP-26 của Thủ tướng VNCH sáp nhập xã Định Hải ( quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.

Trước  những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc và Philippines tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối: Ngày 24 tháng 5 và ngày 8 tháng 6 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
             
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định 420-BNV-HCĐP/26 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

Từ 17 tháng 01 đến 20 tháng 01 năm 1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh chiêm nhóm phía Tây, quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh dũng hy sinh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không cản phá được hành động xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên trên mặt trận ngoai giao Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liện Hợp Quốc và công đồng quốc tế: Ngày 19 tháng 01 năm 1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra Tuyên cáo kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm lược thô bạo của Trung Quốc.

Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiên này: 

Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.

Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.

Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.

Ngày 01 tháng 02 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tăng cường lực lượng đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa trong tình hình Trung Quốc tăng cường sức mạnh tiến hành xâm chiếm lãnh thổ  mà theo nhận định ủa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu:  “Trung cộng sẽ đánh Trường Sa và xâm chiếm bằng vũ lực giống như Hoàng Sa, có sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ”.

Ngày 02 tháng 7 năm 1974, tại Hội nghị luật biển lần thứ 3 của LHQ tại Caracas, đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam , chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là không tranh chấp và không thể chuyển nhượng.

Ngày 14 tháng 02 năm 1975, VNCH công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Ngày 05 tháng 04 năm 1975, Lực lượng Hải quân quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã triển khai kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa 
.
Từ ngày 13 đến 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa niềm Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa .

Ngày 05 tháng 06 năm 1975, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 02 tháng 07 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thông nhất được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn có nghĩa vụ quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Từ những sự kiện nói trên, chúng ta khẳng định rằng tất cả những tư liệu mà phía Trung Quốc đã viện dẫn là cố ý bóp méo sự thật để biện minh cho những hành vi sử dụng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 trở về trước, rồi tiếp đến là xâm lược một số bãi cạn ở phỉa Tây Bắc quần đảo Trường Sa năm 1988, và hiện nay đang triển khai một cuộc xâm lăng kiểu mới, một cuộc “xâm lược mềm”…với việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong hơn một tháng nay, là uổng công vô ích, không thể thuyết phục được ai.

Điều đó càng làm cho dư luận quốc tế, kể cả đa số người Trung Quốc, hiểu rõ hơn bản chất xâm lược, bất chấp luật pháp quốc tế, đe họa đến hòa bình, an ninh khu vực và thế giới, đe dọa an ninh an toàn hàng hải, hàng không quốc tế…của một số thế lực theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang tồn tại ở Trung Quốc.

 ......................
Tên bài của Quê choa, tên gốc Tiến sĩ Trần Công Trục vạch mặt các "bằng chứng" của Trung Quốc