Ngô Nhân Dụng
Sau bài bình luận tuần trước một vị độc giả đã viết thư tỏ ý ông thích một lời kết luận: “Dân chủ tự do không hứa hẹn thiên đường. Nhưng sẽ giúp xã hội loài người tránh rơi xuống địa ngục.”
Ý tưởng đó chắc không mới. Nhiều người chắc đã nghĩ, đã nói từ hàng trăm năm nay rồi, vì đó cũng là một bản chất của chế độ dân chủ tự do. Tự do dân chủ không phải là một bảng lộ trình hứa hẹn ở cuối đường sẽ tới những bồng lai tiên cảnh. Ngược lại, những phong trào chống lại thể chế dân chủ tự do thì lại hay vẽ ra viễn tượng một xã hội hoàn hảo; khi biết là chúng chỉ là những lý thuyết viển vông thì đã muộn.
Trên thế giới đã nhiều lần có những người nổi lên chống thể chế dân chủ, như các đảng cộng sản, các đảng phát xít, hay các đảng tự gọi là theo chủ nghĩa “xã hội quốc gia” từng nắm quyền ở Ðức “quốc xã,” ở Ai Cập thời 1950-60, cho tới Miến Ðiện của Tướng Newin từ đầu thập niên 1960. Những phong trào đó đều đưa ra các chủ nghĩa, các khẩu hiệu nức lòng người; có lúc đã lôi cuốn hàng triệu người tin theo, nhiều người sẵn sàng chết để xây dựng một thiên đường hạ giới. Khi đề cao Tự do, người ta không vẽ ra những hình ảnh viển vông mà chỉ hứa hẹn mọi người sẽ không bị thúc ép.
Quyền tự do của mỗi con người và quyền tự do của một dân tộc, cùng một chữ mà trong hai trường hợp có ý nghĩa khác nhau. Những dân tộc bị lệ thuộc người nước khác đều khao khát tự do; nghĩa là muốn thoát khỏi cảnh bị người nước khác cai quản. Họ có thể hy sinh mạng sống cho đồng bào mình được tự do. Nhưng khi được tự do rồi, người ta sẽ sử dụng quyền tự do đó như thế nào? Trong xã hội mới đó, mỗi người được tự do hay không? Chưa biết, vì khi đang tranh đấu đòi độc lập, người ta chưa bàn, sợ mất tình đoàn kết. Người ta chấp nhận hai chữ Tự Do một cách chung chung. Ít thấy ai khi tranh đấu lại hô hào: “Tự do hay là chết, với điều kiện chúng ta sẽ tổ chức xã hội như thế này, như thế này, vân vân!” Hô một khẩu hiệu như thế thì dài quá, khó lôi cuốn người ta hô theo!
Bởi vậy, mới có những cảnh “hoán nô dịch chủ;” đổi kiếp từ nô lệ người chủ này sang làm đầy tớ cho chủ khác. Chúng ta đã chứng kiến cảnh nhiều lãnh tụ anh minh kêu gọi người khác hãy theo mình tranh đấu cho tự do, thà chết cũng không sợ; nhưng sau đó chính họ lại cai quản mọi người mà chẳng thấy ai được tự do cả. Nhiều dân tộc đã trải qua kinh nghiệm này, sau khi tranh đấu đòi được độc lập, thường phải bắt đầu tranh đấu đòi tự do trở lại!
Chủ nghĩa Cộng sản là một thứ tín ngưỡng trần tục, hứa hẹn một xã hội lý tưởng không khác gì thiên đàng; cho nên đã mị hoặc nhiều người hàng thế kỷ. Ngoài ra, còn những đảng chủ trương dân tộc cực đoan kiểu quân phiệt Nhật Bản cũng hấp dẫn nhiều người vì họ đề cao một nước, một sắc dân. Họ hứa hẹn đưa cả dân tộc lên đỉnh vinh quang, cho mọi người thấy họ cũng tham dự trong đó, chia sẻ một cõi huy hoàng. Lời hứa hẹn của các nhóm tín ngưỡng cực đoan như al Qeada còn lôi cuốn mạnh mẽ hơn nữa vì người ta được hứa hẹn sẽ sống vĩnh viễn trên một cõi thiên đường.
Trong khi đó, người ta chỉ tha thiết đòi tự do, khi các quyền tự do bị chà đạp; ít thấy ai không dưng đề nghị một “chủ nghĩa dân chủ,” vẽ ra một cảnh thiên đường hạ giới, lôi cuốn người khác. Thường chỉ có ai đã phải sống trong nô lệ đến mức không chịu nổi, mới thiết tha đòi được tự do với khẩu hiệu “Tự do hay là chết.” Ðối với những người chỉ mới nghe về hai chữ tự do, nó chỉ là một khái niệm trừu tượng. Vì thể chế tự do dân chủ không hứa chắc sẽ đưa mọi người đến một cõi tốt đẹp hoàn hảo!
Thể chế Dân chủ Tự do chỉ tạo ra một khung cảnh để mọi người sống chung với nhau. Nó cống hiến một hình thức xã hội để sống chung chứ không hứa hẹn một nội dung cụ thể. Nội dung, tức là con người sẽ sống với nhau như thế nào trong xã hội dân chủ, nội dung này tùy theo đặc tính mỗi dân tộc mà thể hiện. Có xã hội thích tranh luận, dùng lý lẽ chiếm phần thắng như ở Pháp; có nơi muốn giữ trật tự, hòa hợp, nhường nhịn như ở Nhật. Có những xã hội muốn nhấn mạnh đến đức công bằng như ở Ðức, ở Na Uy; do đó giảm bớt nhiều quyền tự do lựa chọn của cá nhân, trao cho guồng máy nhà nước nhiều quyền hành. Có xã hội lại đề cao tự do cá nhân nhiều hơn, như ở Mỹ. Ở nước Mỹ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1930 đa số ngả về đức công bằng, chịu hy sinh một số quyền tự do lựa chọn. Ðến thời kinh tế trì trệ trong thập niên 1970, người Mỹ lại thấy cần khuyến khích sáng kiến tư nhân, bèn giảm bớt quyền hạn của nhà nước. Nếu trong cùng một thời gian mà nhiều nhóm người ý kiến khác nhau thì sao? Chỉ có một cách quyết định chung, là bỏ phiếu, một “luật chơi dân chủ”. Luật chơi ở đây là đa số thắng thiểu số. Nhưng nếu một khối đa số cứ thắng hoài, rồi lạm dụng quyền hành bắt nạt những người thiểu số thì sao? Phải thêm vào “luật chơi” một điều nữa để đặt thêm giới hạn trên quyền hành. Ðó là bảng liệt kê những “quyền làm người,” nhân quyền. Dù các anh có liên tiếp thắng cử nhờ chiếm đa số, các anh không được xâm phạm đến những quyền căn bản của người thiểu số; như quyền tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, vân vân. Chính vì vậy, các phong trào dân chủ bao giờ cũng nhấn mạnh đến nhân quyền.
Với cái khung tự do dân chủ, có dân tộc thiết lập chế độ nghị viện để Quốc Hội nắm nhiều quyền; có nước lại chọn một chế độ trao nhiều quyền hành cho một vị tổng thống. Trong mỗi loại đó, vẫn còn có thể vẽ ra nhiều kiểu tổ chức xã hội khác nhau. Nước Na Uy khi mới độc lập, vào đầu thế kỷ 20, đã chọn chế độ quân chủ lập hiến thay vì chế độ cộng hòa. Nghị viện nước này mời một ông hoàng Ðan Mạch sang làm vua, ông hoàng đã yêu cầu phải trưng cầu dân ý, dân chấp thuận ông mới nhận chức. Một ông vua được mời như vậy có lợi hay không? Hơn một thế kỷ sau cuộc lựa chọn đó, dân Na Uy bây giờ vẫn có vẻ rất hài lòng! Bởi vì hiến pháp đã tạo một cái khung cho cuộc sống cả xã hội, có một ông vua cũng không ngại gì, được một ông vua tốt càng may. Nhiều người nói rằng chế độ dân chủ tự do ở nước Mỹ cho phép một người rất tầm thường cũng có thể làm tổng thống. Vì người đó không nắm mọi quyền quyết định; mà nếu ông hay bà ta tệ quá thì cùng lắm cũng chỉ làm khổ dân trong bốn năm thôi!
Kết luận là cùng một cái khung dân chủ tự do, người dân mỗi nước có thể chọn những nội dung khác nhau. Tất nhiên, trình độ dân trí, nhất là trình độ của những người làm chính trị cao hay thấp, sang hay ngu, sẽ quyết định nội dung của cuộc sống xã hội. Nhưng dù nội dung như thế nào, thể chế dân chủ có thể giúp chúng ta tránh nhiều cái xấu, cái ác thường do chính quyền gây ra; nhờ có những giới hạn trên quyền bính. Nếu quyền hành không được giới hạn, thì không phải là một chế độ dân chủ.
Nhiều người không để ý đến tính chất “phòng ngừa” này, vì họ mơ mộng và không đủ tự tin hoặc không tin vào người dân. Họ không tin trong chế độ dân chủ người dân có khả năng đóng vai ngăn ngừa cái ác, cái xấu; cho nên họ đi tìm những thể chế chính trị ba xạo hão huyền. Chúng ta phải thận trọng khi nghe các nhà chính trị hứa hẹn những giấc mơ lớn, đưa ra những viễn ảnh lý tưởng. Cuối cùng, khi biết không thể thực hiện được những điều mơ mộng, lý tưởng đó, người ta sẽ phải nói dối. Họ nói dối làm cho mọi người bắt chước, ai cũng học nói dối cho giỏi. Ðạo đức cả xã hội sẽ suy đồi.
Phải lo việc ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, vì đó là một mối rủi ro bất trắc trong cuộc sống chính trị. Ở nước nào cũng vậy, kể cả các nước dân chủ lâu đời rồi, người nắm quyền, dù cấp cao hay cấp thấp, cũng hay lạm quyền, mối rủi ro đó lúc nào cũng có thật. Thường khi muốn đề phòng rủi ro bất trắc, người ta đi mua bảo hiểm. Thiết lập một thể chế dân chủ chính là “mua bảo hiểm” cho xã hội. Tức là đề phòng khuynh hướng lạm quyền của nhà nước bằng cách đặt ra trước các giới hạn bắt họ phải theo. Ai đã sống trong một xã hội mà nhà nước nắm hết mọi thứ quyền, mới thấy khi cả xã hội “không được bảo hiểm” thì rất nguy hiểm! Nếu trình độ của những người nắm quyền lại quá thấp thì mối nguy hiểm đó càng lớn!
Ngô Nhân Dụng - NV
***
Dân chủ là gì?
Nguyễn Hưng Quốc – Trong hơn hai thập niên vừa qua, trên thế giới, có lẽ ít có chữ nào, về phương diện tần số xuất hiện, được phổ cập; về phương diện từ nguyên, đơn giản và dễ hiểu; về phương diện lý tưởng, được nhiều người đồng thuận; nhưng về phương diện ngữ nghĩa, lại mơ hồ; và về phương diện chính trị, lại bị lợi dụng nhiều như chữ dân chủ.
Ở đâu cũng nghe chữ dân chủ. Chữ dân chủ xuất hiện ngay trong tên chính thức của nhiều nước (chẳng hạn, ở Việt Nam trước đây, “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”) hoặc trong hàng tiêu ngữ thường được viết dưới quốc hiệu.
Chữ dân chủ cũng được đặt làm tên các đảng phái chính trị. Phần lớn các cuộc cách mạng nổi lên từ đầu thế kỷ 20 đều nhắm đến lý tưởng dân chủ. Các cuộc cách mạng bùng nổ ào ạt từ cuối thế kỷ 20 lại càng giương cao ngọn cờ dân chủ.
Nhân danh dân chủ, người ta phá sập bức tường Bá Linh. Nhân danh dân chủ, người ta tuyên bố khai tử chủ nghĩa cộng sản từng có thời thống trị cả một nửa nhân loại. Gần đây, cũng nhân danh dân chủ, người dân ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi xuống đường thách thức lại các chế độ chuyên chế từng bóp nghẹt tự do của họ trong cả mấy chục năm ròng rã.
Mà không phải chỉ mới phổ biến gần đây. Khái niệm dân chủ, vốn gắn liền với nền văn minh La Hy, đã xuất hiện từ lâu. Chữ “democracy” (dân chủ) trong tiếng Anh và một số ngôn ngữ Tây phương khác hiện nay có gốc gác từ tiếng Hy Lạp cả hơn hai ngàn năm trăm năm trước, trong đó, “demos” là dân, nhân dân; và “kratos” là trị, cai trị. Có lẽ nó hoàn toàn tương đương với chữ “dân chủ” mà chúng ta đang sử dụng: dân làm chủ. Không có người nào tóm tắt khái niệm dân chủ ấy hay bằng Abraham Lincoln trong câu nói nổi tiếng: “chính quyền của dân, do dân và vì dân”.
Đơn giản như thế, nhưng đi vào thực tế, khái niệm dân chủ bỗng trở thành phức tạp lạ lùng.
Thứ nhất, dân hay nhân dân là ai? Nhân dân, như một toàn khối, là một khái niệm mơ hồ, hàm hồ và phi thực. Ở đâu người ta cũng phải lựa chọn, và lựa chọn cũng có nghĩa là loại trừ. Ngày xưa, trong các nền dân chủ sơ khai thời cổ đại Hy Lạp, có ba thành phần bị loại trừ: những người ngụ cư, nô lệ và phụ nữ. Sau, dưới thời trung cổ, một thành phần khác bị loại trừ: những kẻ ngoại đạo.
Ngay dưới những chế độ dân chủ thực sự thời hiện đại, thoạt đầu, cũng có nhiều thành phần bị loại trừ, chủ yếu vì lý do chủng tộc: người da đen ở Mỹ và người thổ dân ở Úc. Ngay cả khi không phải vì những lý do liên quan đến chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay giai cấp, sự loại trừ vẫn có thể xảy ra giữa đa số và thiểu số; có khi, do thiết chế, chính đa số cũng có thể bị loại trừ như trường hợp cuộc bầu cử Tổng thống ở Mỹ năm 2000 khi Al Gore chiếm được đa số phiếu phổ thông nhưng lại thua Georges W. Bush, người được nhiều phiếu của cử tri đoàn.
Thứ hai, bằng cách nào nhân dân làm chủ đất nước, qua đó, làm chủ số phận của mình. Trên lý thuyết, có hai cách chính: một là trực tiếp; hai là gián tiếp, qua các đại biểu. Cách trên, về giá trị, được coi là tối ưu, nhưng trên thực tế, ở tầm quốc gia, hầu như bất khả thực hiện. Cách dưới, từ Cách mạng Pháp về sau, được xem như là hình thức khả thi duy nhất của dân chủ, từ đó, thuật ngữ “dân chủ đại biểu” (representative democracy) được ra đời.
Nhưng ở đây lại nổi lên một số vấn đề. Chẳng hạn, thế nào là “đại biểu”? Theo A.H. Birch, trong cuốn Representation (1972), khái niệm “đại biểu” có ít nhất ba cách dùng khác nhau: một, người hành động nhân danh quyền lợi và sở thích của kẻ khác; hai, người chia sẻ một số đặc điểm của cả một tập thể nào đó; và ba, người tự đồng nhất mình với một tầng lớp nhất định.
Sau khi xác định ý nghĩa của chữ “đại biểu”, lại gặp một vấn đề khác: làm thế nào để chọn các đại biểu ấy? Trong lịch sử, có nhiều hình thức chọn lựa khác nhau, và không phải hình thức nào cũng thực sự dân chủ, nhất là khi những người được xem là đại biểu ấy không phải lúc nào cũng tôn trọng nguyện vọng của những người đã bầu cho mình.
Tuy nhiên, những sự khác biệt ấy cũng không ngăn cản giới trí thức và chính trị gia thành tâm và có thiện ý đạt đến một số đồng thuận nhất định để có thể phân biệt được dân chủ thực sự với những hình thức phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu.
Nói một cách tóm tắt, dân chủ phải bao gồm ít nhất một số yếu tố:
Một, nói đến dân chủ, trước hết, là nói đến cơ chế, đến cách thức tổ chức chính quyền. Một chế độ dân chủ phải được dân bầu một cách tự do và bình đẳng. Tính chất tự do và bình đẳng ấy chỉ có thể thực hiện được với một số điều kiện nhất định:
Thứ nhất, quyền phổ thông đầu phiếu cho mọi người thành niên; thứ hai, mọi người đều có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội, đặc biệt, được quyền đối lập và phản biện, quyền tuyên truyền và vận động cho lập trường và quan điểm của mình; điều đó có nghĩa là, thứ ba, sinh hoạt chính trị phải dựa trên nền tảng đa nguyên và đa đảng.
Tuy nhiên, bầu cử và đa đảng không bảo đảm được dân chủ nếu chính quyền không tổ chức bầu cử một cách nghiêm minh hoặc sau đó, không tôn trọng kết quả bầu cử (như trường hợp Miến Điện hay Zimbabwe trước đây).
Do đó, cần thêm hai điều kiện này nữa: tính chất khả kiểm (accountability) và tinh thần thượng tôn pháp luật. Tính chất khả kiểm lại dựa trên sự minh bạch của chính phủ và quyền tự do thông tin và ngôn luận của mọi người. Trong khi đó tinh thần thượng tôn pháp luật chỉ có ý nghĩa khi tư pháp được độc lập với hành pháp.
Hơn nữa, nói đến cơ chế, không nên chỉ nghĩ đến nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước chỉ là một bộ phận trong mạng lưới các thiết chế đa dạng và phức tạp, bao gồm các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghiệp đoàn, văn hóa, xã hội, thương mại, v.v… Các tổ chức này phải được độc lập với chính quyền và nhằm phát huy một xã hội dân sự lành mạnh để, một mặt, củng cố tình liên đới giữa các cá nhân, mặt khác, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trước khuynh hướng bao trùm và khống chế tất cả của nhà nước.
Hai, tất cả các cơ chế ấy phải được vận hành trên một nguyên tắc: pháp trị. Dân chủ chỉ thực sự là dân chủ khi nó được đặt trên nền tảng pháp luật. Pháp luật ấy, một mặt, gắn liền với những giá trị phổ quát của nhân loại; mặt khác, chi phối mọi thành viên trong xã hội, hoàn toàn không có ngoại lệ, nghĩa là không có ai, tuyệt đối không có ai, dù là vua hay tổng thống hay tổng bí thư đảng, có thể đứng trên pháp luật được.
Hai yếu tố trên rất được nhiều người nhắc đến. Nhưng dân chủ không phải chỉ là cơ chế hay nguyên tắc. Dân chủ còn là một hệ thống niềm tin và giá trị. Bởi vậy đằng sau các cơ chế hay nguyên tắc ấy bao giờ cũng có một thứ văn hóa chính trị đặc biệt được xây dựng trên ba nền tảng chính:
Thứ nhất, sự tôn trọng nhân quyền, trong đó có hai quyền cơ bản nhất: tự do và bình đẳng của mọi công dân. Không được quyền nhân danh bất cứ thứ gì, kể cả đa số, để áp chế, tước đoạt quyền lợi hay chà đạp lên nhân phẩm của người khác thuộc phe thiểu số.
Một xã hội dân chủ thực sự, một mặt, thực hiện ước muốn của đa số, nhưng mặt khác, phải bảo đảm quyền lợi của thiểu số. Điều quan trọng là việc bảo vệ quyền tự do và bình đẳng của con người phải được thiết chế hóa chứ không phải chỉ dựa vào thiện chí của các nhà lãnh đạo.
Thứ hai, một văn hóa dân sự (civic culture) với hai trọng tâm là ý thức trách nhiệm và sự tin cậy đối với cộng đồng và đất nước.
Thứ ba, tôn trọng sự đa dạng. Đây là sự khác biệt chính giữa dân chủ cổ điển (ở Hy Lạp) và dân chủ hiện đại: trong khi dân chủ cổ điển dựa trên sự thống nhất và đồng nhất, dân chủ hiện đại dựa chủ yếu trên sự đa dạng và sự khác biệt.
Không phải cái gọi là dân chủ nào cũng hội đủ các đặc điểm nêu trên. Bởi vậy, trên thế giới mới có dân chủ thật và dân chủ giả (pseudodemocracy). Dưới các nền dân chủ giả, dân chúng cũng được phát phiếu đi bầu.
Nhưng họ chỉ được bầu những người đã được ai đó lựa chọn sẵn. Và họ hoàn toàn không kiểm soát được hai điều mà, trên nguyên tắc, họ cần và có quyền kiểm soát: thứ nhất, quá trình đếm phiếu (không phải ngẫu nhiên mà ở các nền dân chủ giả, những người thắng cử bao giờ cũng thắng một cách hết sức vẻ vang, toàn 100% hoặc gần gần 100%!), và thứ hai, quá trình hoạt động của các đại biểu sau khi thắng cử.
Bạn thử nghĩ xem nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là thật hay là giả?
Theo Danlambao