Saturday, April 28, 2012

Câu chuyện chủ nhật: Bình chú giải về những lời mạ lị nhà văn Nguyễn Huy Thiệp


Phạm Thành


Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp


 

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với tài văn lừng lẫy thiên hạ vừa công bố tác phẩm mới: vở chèo: “ Vong Bướm” lập tức bị một số nhà cải cọ lăng nhăng “hội quân” đánh đòn hội đồng cấp tập, dã man. Nó như là “đòn thù” đã được “ủ nhuyễn” từ lâu chỉ chờ dịp Thiệp “ló đầu” ra là đại bác cấp tập nhã đạn. Người nhằm bắn đạn bẩn đầu tiên (đã nhã 3 viên, còn một viên) mang tên Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu, quê Thanh Hóa, nguyên giám đốc Nhà Xuất bản Văn học. Người này khi còn đương chức thi thoảng có bài điểm sách, thi thoảng có bài cải cọ này nọ về các tác phẩm văn học đăng trên một vài tờ báo, nhưng chẳng có ai để ý. Rồi tiếp đến nhà giáo Lê Xuân, bạn giáo viên với Thiệp (2 viên); đến nhà phê bình “thứ thiệt” Bùi Công Thuấn (cũng hai viên). Tất cả họ đều một giọng hạ sát, nhục mạ Thiệp một cách mà các bà hàng tôm hàng cá có vén váy lên chửi nhau cũng phải khom lưng tôn các vị này lên bậc đại sư phụ.


Nguyễn Văn Lưu chửi Thiệp, “Sao lại chửi đời”; chửi Thiệp là kẻ “Phản đạo, vô đạo” là kẻ “bất lương, vô nhân bản, là kẻ dối trá, không sợ ai?” là kẻ “dắt gái, ma cô đĩ bợm không từ"; kẻ “nôn mửa vào lịch sử, vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”.



Lê Xuân miệt thị Thiệp là “con buôn”, kẻ “đốt sách”, kẻ “loạn ngôn”, kẻ “vô chính phủ". Và cũng như Lưu, Xuân cũng “mách” với “Cảnh sát”: “Thiệp xúc phạm đến cả dân tộc, cả Đời, từ chủ nghĩa xã hội đến các vị anh hùng dân tộc” và mớn an cho Tòa án: “Vẻ đẹp của đất nước ta hôm nay có được là do biết bao xương máu của các anh hùng, liệt sĩ và dân tộc đổ xuống. Đó không phải là thành quả của cách mạng đem lại hay sao?”.


Khác một chút với hai người kia, Bùi Công Thuấn có vẻ khách quan hơn khi đem học thuật ra để hạ sát Thiệp. Nào là Thiệp “không có tư tưởng, không có triết học, và quên Thiệp từ lâu rồi”. Nhưng ẩn trong các câu trích dẫn Thuấn cũng như hai vị trên đều “tố” Thiệp là tên phản động của nước Việt ta phá hoại từ giáo dục đến an ninh, từ nhân cách đến hạnh phúc của nhân dân Việt Nam anh hùng.

Toàn những vấn đề ghê gớm.

Trong các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình…có bao nhiêu người làm đặc tình cho công an, hẳn mọi người đã nghe nói. Ba vị phê bình trên không biết có phải là đặc tình hay không, nhưng mục tiêu đề ra của các bài viết này không khác là bao so với “bản báo cáo tố giác tội phạm” của đặc tình. Nhưng chuyện đó là chuyện của anh ninh. Tôi tin, từ các bài viết của 3 vị này mà một ngày gần đây nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sẽ bị tống lao vì hằng hà sa số tội:
- Môi giới mại dâm
- Trốn thuế
- Tuyền truyền chống nhà nước
- Tuyền truyền chống dân tộc
- Phỉ báng đạo Phật
- Phỉ bán đạo Thiên chúa
- Phỉ báng đất đai, xương máu người hy sinh
Căn cứ để tống lao Thiệp là các bài viết của ba vị này, rành rành nha. Nhưng đấy là chuyện của kiểm sát, an ninh và những tên chó săn chuyên sục mõm vào mâm cỗ. Tôi, một người đọc bài của các vị chỉ xin bình chú giải những vấn đề mà tôi thấy ngứa tai tôi mà thôi.

1. Nguyễn Văn Lưu: tri bất tri.


Nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Lưu giống ai vậy? Ảnh: Tư liệu Google.

Nguyễn Văn Lưu dưới cái tít bài “Sao lại chửi đời”, “Thiệp ơi, Thờ phật làm chi”, “Có phải Nguyễn Huy Thiệp không biết sợ” và một bài nữa sắp đăng. Chỉ lướt những cái tít của Nguyễn Văn Lưu đã thấy rùng mình cả người, kinh khiếp còn hơn cả sự kinh khiếp, giống như Lưu đem phân của người anh hùng Trịnh Xuân Bái, cùng quê huyện Thọ Xuân với Nguyễn Văn Lưu, đổ ụp xuống đầu Nguyễn Huy Thiệp (Những năm 60 của thế kỷ trước, ông Trịnh Xuân Bái nhờ có sáng kiến đem phân người ủ thành phân bắc để bón cho cây trồng nên được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phong tặng danh hiệu: Anh hùng lao động). Thật không còn có thứ nhơ bẩn rác thải nào hơn đổ chụp lên đầu Nguyễn Huy Thiệp.

Mà “cái tội” lớn của Nguyễn Huy Thiệp là “Sao lại chửi đời” bằng thứ ngôn ngữ mà Nguyễn Văn Lưu cho là tục tằn:

“Đéo mẹ tiên sư đời tầm thường
Đéo diện lượt là, đéo đế vương
Đéo vênh vang mặt: giai đéo sợ
Đéo giáo giở lòng: gái đéo thương
Đéo khoác lác cho phường vô dụng!
Đéo cúi luồn hóa đứa bất lương!
Đời có ra chi mà đéo chửi!
Đéo mẹ tiên sư đời tầm thường!”.

Và Lưu bình “Viết sách như thế đúng là làm trò cười cho thiên hạ”.

Ơ, cái ông Lưu này, đây và vở diễn, nếu chưa diễn mà Lưu đã thấy cười rồi, chẳng là thành công ngoài mong đợi của Thiệp rồi sao?

Lưu nói, Lưu ghê sợ cái sự tục. Hãy từ từ để giám định cái ngôn ngữ tục tằn của Thiệp là gì, có đáng để cho Nguyễn Văn Lưu ghê tởm để lại mượn tục chửi tục lại Thiệp không?

Đời có ra chi mà đéo chửi
Viết văn, đọc sách, trò cười ư?
Tiểu nhân lại đóng vai quân tử
Đĩ bợm ma cô cũng chẳng từ.
Bạn hỏi ở đâu đời gớm thế
Tỉnh thức đi cùng với lú mê
“Vong bướm” tích chèo vừa mới mở
Văn nhân Nguyễn (Huy) Thiệp mượn vai hề!”.

Trước hết tôi xin bình chú giải về lời “tố” của Nguyễn Văn Lưu đối với Nguyễn Huy Thiệp: “Sao lại chửi đời?

Thưa ông Lưu, tôi xin hỏi ông: Đời là cái gì mà ta lại không dám chửi? Phải chăng Đời là Ngọc Hoàng, Đời là ánh sáng, Đời là không khí, là thần là thánh, là ngọc ngà kim cương, là mâm cỗ… chỉ được phép thờ, không được chửi?

Đời phải chăng không phải là của mỗi người chúng ta vừa cộng, vừa trừ, vừa nhân, vừa chia, và khai căn… với nhau mà thành? Nói một cách “lý luận”, Đời là mối quan hệ giữa người với người, và việc chửi hay khen Đời là tất yếu của bất kỳ một thứ văn tự nào khi chúng được viết ra. Nói một cách khác, bất kỳ một văn tự nào được viết ra, suy cho cùng cũng đều thể hiện thái độ, tư tưởng nào đó, chung quy lại là: hoặc là khen, hoặc là chê, hoặc là vừa khen vừa chê Đời.

Vậy thì cái mối quan hệ giữa người với người trong xã hội Việt Nam ta trong mấy chục năm qua như thế nào? Hẳn người có lương tri đều đã biết cả.

Nó là một xã hội mà trong đó, dân tộc ta đã phải hứng chịu một thứ chủ nghĩa quái thai nhập ngoại về, lấy tính giai cấp làm động lực để phát triển xã hội, đã không khoan nhượng tiêu diệt tính dân tộc; lấy súng đạn để dựng nên chính quyền; lấy đất đai sông núi làm nhà tù; lấy nhân dân làm vật thí nghiệm; lấy chém giết, đàn áp, bỏ tù làm kế sách giáo dục… Cái xã hội đó, dắt mũi dân tộc đi về cõi âm; đã dìm văn hóa đạo đức con người vào bể phốt. Cái Đời đó đã được “blog 2D của Nhà văn Nhật Tuấn khái quát và treo trang trọng trên đầu blog của mình: “Blog thời 2D: Đồ Đểu, Đĩ Đực, Đàng Điếm, Độc Đoán, Điên Đầu, Điên Địt, Điên Đéo, Điên…

Nhà văn Nhật Tuấn cũng chứi đấy chứ, nhưng là chửi bằng khẩu hiệu, còn Nguyễn Huy Thiệp chửi bằng văn, bằng những câu chuyện kể, có nhân vật, có tình tiết, có tâm hồn…, tức là chứi bằng nghệ thuật của con chữ và hình tượng. Thiệp viết, như Lưu đã dẫn, là “Thế hệ tôi nôn mửa vào lịch sử”, đám nhà văn thì rặt một bọn “rặt rẹo, lưu manh”.

Nguyễn Văn Lưu, ông hãy bình tâm mà nhận mặt lịch sử đi. Trong gần 70 năm qua, dân tộc ta đã tiến tới đâu so với thế giới; Quyền tối thiểu của người Việt Nam xếp hạng bao nhiêu trong bức tranh tiến bộ, văn minh của thế giới? Chiến tranh liên miên mấy chục năm qua góp gì cho sự giải phóng con người? Cái sự chiến thắng của của miền Bắc làm bao nhiêu người sung sướng, bao nhiêu đớn đau? (như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã cảnh tỉnh). Sau chiến thắng, cái cảnh “cành đậu đun hạt đậu” diễn ra “tưng bừng”, và vẫn còn “tưng bừng” ở thì ngày nay. Văn minh, lương thiện con người như Lưu nói là “phi thường” vẫn đang song hành cũng cái “tầm thường”. Ông Lưu ơi, hãy vào mạng và chỉ cần “lướt mạng”, cũng không cần ông lẩm nhẩm cộng, trừ, nhân, chia gì thì ông cũng buộc phải nhận ra, cái “phi thường” của ông là thứ của hiếm, của độc, cái ẻo lả, nhạt nhòa; còn cái dã man, phi con người, phi đạo đức, phi văn hóa, cướp giật, giết người, trộm cắt, đĩ điếm, tham ô, tham những, “coi mạng người như cỏ rác” lại diễn ra ngày ngày, nhiều đến mức ai cũng phải kinh khiếp và ghê sợ. Vậy, cái xã hội đó là cái xã hội “phi thường” đẹp, phổ biến hay là một xã hội đang “đi về nơi hoang dã – tiểu thuyết của Nhật Tuấn” mới là phổ biến? Tôi dám cược với Lưu 1 ăn cả tất cả bạn bè của tôi rằng, hầu hết người Việt Nam hiện nay sẽ “biểu quyết” với tinh thần đồng thuận cao ở khía cạnh thứ 2, đó là cả dân tộc ta, sau chiến thắng đánh đuổi ngoại xâm, sau đổi mới mấy chục năm trời vẫn đang “đi về nơi hoang dã”.

Chả có mấy ai là không biết cái Đời đang như vậy. Cái Đời đang bị “tồn tại khách quan” như vậy. Và, dù muốn hay không tất cả đều bị vấy bẩn, nhiều ít có khác nhau. Nhưng kỳ lạ là, chả có mấy ai dám từ bỏ nó, vạch mặt nó, lên án nó mà hầu hết đều chấp nhận nó, sống với nó như sâu, như bọ nhung nhúc ăn, vui… trong một đống. Cái xã hội đó đúng như Nguyễn Huy Thiệp đã viết:

Chàng duỗi chân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói :-Cứt…Giờ đây gặp Mỵ Nương, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc : – cứt. …Trương Chi không hát nữa. Chàng lại nói:- Cứt…Chàng ăn cá nhưng được vài miếng chàng lại nhổ đi. Chàng nói : - Cứt. Mị Nương bảo chàng hát, Trương Chi biết đó chỉ là trò cứt. Khi Trương Chi Hát, bọn hoạn quan đứng quanh nhiều lần cười ré lên: - Hát như cứt…Trương Chi lại chèo thuyền ra giữa tim sông. Chàng lại nói :- Cứt.


Đứng trước một Đời như vậy, người có lương tri chân chính phải làm gì? Phải lên án nó, nguyền rủa nó, kêu gọi tiêu diệt nó, tức là chửi nó là một lẽ đương nhiên, là một hành động cần thiết, là tấm gương sáng của đạo đức Hồ Chí Minh. Nguyễn Huy Thiệp đã dũng cảm làm như vậy. Một số người ít ỏi khác cũng đã và đang làm như vậy. Chửi những cái xấu xa của con người, sao có thể là người phản đạo, vô đạo, kẻ bất lương, vô nhân bản, kẻ dối trá, không sợ ai, kẻ dắt gái, ma cô đĩ bợm không từ; kẻ “nôn mửa vào lịch sử, vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được". Còn không chửi nó, makeno nó, đương nhiên đó là cách “hành động” của những kẻ bất tri, hoặc có tri nhưng là cái tri đồng tình và đang đồng hành cùng nó, “quyết” đưa Đời “đi về nơi hoàng dã”, nơi Đời là những con vật chuyên “ăn sống, nuốt tươi” đồng loại. Những kẻ như thế này mới chính là kẻ: Phản đạo, vô đạo, kẻ bất lương, vô nhân bản, kẻ dối trá, không sợ ai, kẻ dắt gái, ma cô đĩ bợm không từ, kẻ ăn chung năm chạ với đống nôn mửa của lịch sử, và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Không khen Nguyễn Huy Thiệp dám dũng cảm chửi Đời mà lại mạt sát Nguyễn Huy Thiệp, Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu đang là kẻ bất tri, kẻ makeno, kẻ đang vui thú đồng hành cùng đưa Đời “đi về nơi hoang dã”, nơi Đời đang là những con vật chuyên “ăn sống, nuốt tươi” đồng loại.


2. Lê Xuân, sao lại phỉ báng doanh nhân?


Nhà giáo Lê Xuân. Ảnh: lethieunhon.com

Cũng trong đòn đánh hội đồng lần này, người có tên là Lê Xuân tự xưng là là giáo viên cùng với Thiệp hồi ở Tây Bắc. Người này chỉ nhẹ nhàng cung cấp cho bạn đọc “Về cái tài của Nguyễn Huy Thiệp” khi làm thày giáo và khi làm biên tập viên ở Nhà xuất bản Giáo dục, và như chưa đã cơn “tố cáo” Xuân lại bồi thêm một “đòn” nữa “Nguyễn Huy Thiệp giữa chính danh và ngụy danh”. Xuân lại cũng phê bình văn chương Thiệp theo cái lối mà nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã chế ra: “bỏ bóng đá người”, “tố cáo” Thiệp là kẻ khôn ngoan, cơ hội và con buôn, nói trắng ra nói Thiệp là kẻ lưu manh. Có thể Xuân nói không sai. Nhưng Xuân nói như vậy, cũng là kẻ bất tri như Nguyễn Văn Lưu mà thôi, nhưng hèn thì hèn hơn Nguyễn Văn Lưu. Vì rằng, Thiệp “lưu manh” là để tồn tại, là để rồi mấy năm sau Thiệp làm một cuộc cách mạng trong văn học Việt Nam bằng những tác phẩm để đời như: Tướng về hưu, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Qua Sông, Thương nhớ đồng quê, vân vân, mà nếu không có nó nền văn chương Việt Nam sẽ mãi như một tên nô lệ khốn nạn thủ dâm trong chuồng lợn. Hơn nữa, Thiệp khôn ngoan kiếm tiền để tồn tại, đó như là sự đấu tranh để sinh tồn trong một xã hội đói kém và bịt đường sinh sống, chứ có kiếm tiền để củng cố quyền lực, kết bè kết cách gây tội ác đâu. Nó chỉ là sự quyền biến để tồn tại. Nó cũng như Việt vương Câu Tiễn phải nếm cứt vua Ngô Phù Sai vậy. Chẳng thương cho Thiệp, cho biết bao thân phận thì thôi, Lê Xuân lại “nhe răng cắn áo rách”. Phê như thế chẳng những khổ cho Thiệp mà con đau cho biết bao thân phận người Việt Nam ta đã sống ở thời bao cấp.

Nhưng quan niệm của Lê Xuân, về cái nghề buôn mới là điều đáng xấu hổ. “Con buôn” là cách gọi kinh thị của đám hủ nho. Lũ này chỉ cho chữ nghĩa mới là quan trọng trên hết; còn ăn ở, yêu đương chỉ là cứt đái… Quan niệm này đã bị “cây đời mãi mãi xanh tươi”, đã bị tri thức con người loại bỏ từ lâu rồi. Buôn bán kiếm tiền là một nghề, và là một nghề quan trọng, thiếu nó cư dân đô thị sẽ thiếu cơm ăn, nước uống hàng ngày ngay lập tức. Vì thế, nước mình từ đổi mới đến nay “con buôn” đã trở thành giường cột của quốc gia, của nhà nước, chính phủ, của nhân dân, của các tổ chức xã hội. Hàng năm đều có “mít tính kỷ niệm”, trao giải vàng, giải bạc cho những “con buôn” giỏi.

Một comment có tên là Dokimkhang đã giúp Lê Xuân nhận thức cho đúng về doanh nhân thế này:

“”thực dụng” và “con buôn” thì đã sao? ngày nay người ta đang đội con buôn lên đầu, rồi trao hết giải thưởng này, tới giải thưởng khác đó thôi. với việc mang chuyện riêng tư của tác giả ra để tranh luận về tác phẩm của họ, tôi sợ rằng thiếu nghiêm túc và không công bằng, nhất là những chuyện thời bao cấp chỉ xem như sự bi hài, vì chả lẽ chúng ta lại đi tìm “thân thế và sự nghiệp” những ai đã đọc Nguyễn Huy Thiệp và cả ông giám đốc vừa mua bản quyền các tác phẩm cuả Nguyễn Huy Thiệp? vì thực tế ở Việt Nam và cả trên thế giới, không thiếu gì những tác giả đã từng trải qua cuộc sống bi đát dưới đáy của xã hội, nhưng những tác phẫm của họ viết về những gì họ từng trải lại trở nên bất hủ. Với những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp tôi nghĩ nó ra đời đúng lúc, khi mà niềm tin trong con người có phần suy giảm, thậm chí sụp đổ trong một bộ phận người đọc. Nguyễn Huy Thiệp như một dòng nước lạ (độc hay không tính sau) thu hút mọi người, nhưng cũng như cuộc chơi tắm bùn nó sẽ tạo nên một trận cười khoái trá sau những căng thẳng và trét, nhưng rồi nhìn lại mặt ai cũng vấy bùn””.

Cái hèn nhà giáo Lê Xuân còn ở chỗ, tại sao lại chỉ trích Thiệp, một công chức nhà nước, phải cần khôn một tí mới có thể tồn tại được mà không vạch mặt những kẻ chẳng cần phải “ buôn” mà ngày ngày tự tung tự tác thít cổ dân, cướp bóc của cải, ăn trên ngồi chốc như vua. Tại sao “thày” không đem chữ ra mà vạch mặt cái tổ chấy này lại chỉ dám soi mói một bạn đồng nghiệp, phải khôn một tí mới sống được, phải học Câu Tiễn nếm cứt vua Ngô mới sống được? Nó cũng tương tự như các chiến sĩ cách mạng, buộc phải bịa ra tấm gương Lê Văn Tám để cổ vũ phong trào cách mạng mà thôi.

Tiểu kết:

Xin được tiểu kết về hai ông Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu và Lê Xuân bằng một commet khác có tên là Hoa tri trên lethieunhon.com như sau:

Nguyễn Văn Lưu và Lê Xuân là ai thực sự bạn đọc trẻ không biết, chỉ biết thông qua danh tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, khi các ông có các bài chửi đổng, vu khống Nguyễn Huy Thiệp. Ở các nhà sách, sách của người này người kia chất đống cũ mốc năm này tháng kia không có người mua nhưng sách của Nguyễn Huy Thiệp ra cuốn nào hết cuốn nấy, không tranh thủ mua thì hết sạch. Vừa rồi ngày thơ Việt Nam, ở Sài Gòn một số người đang mua cả bè cá định đi phóng sinh (nhân ngày rằm tháng giêng) nghe tin Nguyễn Huy Thiệp bán Vong Bướm ở miền Bắc đã bỏ dở bè cá bay ra Bắc để mua được sách, khi về cầm theo Vong Bướm có chữ ký của nhà văn. Sự thành công ngoài sức tưởng tượng của Vong Bướm đầu năm nay và cả việc NHT bán bản quyền tác phẩm 5 năm cho NXB Trẻ trị giá nửa tỉ đồng đã làm xốn sang quá lớn đối với nhiều người cầm bút, tôi nghĩ đó chính là lý do có các bài viết này ra đời. Có một điểm xin được phê bình là Nguyễn Văn Lưu (không biết là ai) viết không có nghệ thuật lắm khiến người ta đâm ra nghi ngờ tính khoa học của bài viết, tương tự như thế ở bài này Lê Xuân (không biết là ai) cũng không thành công. Nếu có các bài viết hay thì có thể mới thu hút được các cây bút phê bình lớn trong nước, dựng được một sự kiện để mai sau còn nhắc. Các thông tin bài viết người đọc không tin”.

3. Bùi Công Thuấn, đúng không cần cải, nhưng…



Nhà phê bình Bùi Công Thuấn. Ảnh: Tư liệu Google.

Một nhà phê bình chính danh Bùi Công Thuấn vào hùa, theo cái cách thì thụt “ném đá giấu tay” không nói tới giá trị văn chương Thiệp hay, dở thế nào mà là phê bình “Nguyễn Huy Thiệp là người thế nào” và “Nghệ thuật giấu mặt của Nguyễn Huy Thiệp”. Ông ta vòng vo Tam quốc, chẳng biết khen Thiệp hay chê Thiệp, hay khen chê một ít như thói quen phê bình điếm đàng của các nhà phê bình nước ta hay làm, để rồi ông quyết bỏ Thiệp vì Thiệp không có triết học, không có tư tưởng.

Bùi Công Thuấn nói: “Hãy bỏ qua tâm ý của Thiệp, thì bạn đọc nhận ra rõ ràng rằng Thiệp chẳng có một lý thuyết xã hội nào, hay nền tảng triết học tư tưởng nào để lập ngôn, chỉ có cách nói đưa đẩy vòng quanh, cảm tính, như thế Thiệp sẽ chẳng đối thoại với ai được" (những lý thuyết gia kinh tế, chính trị),

Thật là “u u minh minh”, cứ phải có triết học trong mình mới sáng tác đựơc ư? Cứ phải có thần tượng trong mình mới sáng tác được ử? Thiệp đã lập ngôn và mỗi lập ngôn của Thiệp đều để lại ấn tượng mạnh trong xã hội theo ý nghĩa tích cực và lập ngôn của Thiệp đã mang tư tưởng Thiệp, và Thiệp đã trên cả có ích của biết bao người. Thử hỏi, Thích ca khi sáng tạo ra đạo Phật, Gie-su sáng tạo ra đạo Thiên chúa, trong hai ông có triết học nào, tư tưởng nào, thần tượng nào?

Bùi Công Thuấn cố gắng làm trò “ném đá giấu tay” đến mức tối đa nhằm“lôi cổ” Thiệp ra để hạ sát. Nhưng chỉ cần trích theo Bùi Công Thuấn cũng thấy Nguyễn Huy Thiệp đúng.

Chẳng hạn: “Thiệp nói nhân dân VN đang bị nô lệ mà không biết”- Đúng không thể cải.

Thiệp nói về các nhà chính trị VN: Họ chỉ “hứa hẹn suông để bịp bợm thôi”, và “Đừng có bẫy tay vào chính trị tư tưởng, mày đều lắm”…” Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! (Những Người Thợ Xẻ) – Cũng đúng không thể cải.

Về cái Hội nhà văn Việt Nam, Nguyễn Huy Thiếp viết, Bùi Công Thuấn “tố cáo” và ngầm kêu gọi Hội đuổi Thiệp ra khỏi Hội:

““Trong cách chửi, giọng văn NHT bình tĩnh dẫn dụ, sau đó bất ngờ bốp chát thẳng vào mặt đối tượng. Xin đọc. “ …Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh… Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ… trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa." (Nguyễn Huy Thiệp – Trò Truyện Với Hoa Thủy Tiên) – Cũng đúng không thể cải.

Bùi Công Thuấn “tố cáo” Thiệp, tiếp: “Lúc này ở Châu Âu, nền Đế chế Napôlêông Bonnapac đã sụp đổ. Châu Âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà tư tưởng hoặc các hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn…” (Vàng Lửa)

và: “Tôi nói NHT lệch lạc, võ đoán và tự ty khi đưa ra nhận định: Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp” – Đúng không thể cải.

Tiếp: “Lê Lợi biết tư tưởng đó chỉ là ngọn cờ khởi sự chứ không phải phương pháp. Hơn nữa ngọn cờ ấy chỉ phù hợp với tình trạng khốn cùng về vật chất của đám đông trong từng khoảng thời gian nhất thời. Lê Lợi vĩ đại vì đã thực tế hơn Nguyễn về cuộc sống…Nguyễn tôn sùng đám đông nhưng Lê Lợi tin chắc chỉ có những cá nhân siêu việt mới có khả năng gây men cho lịch sử. Lê Lợi hiều rõ khả năng tạo dựng và khả năng phá bỏ của Nguyễn nhưng Nguyễn lại không có khả năng giữ nguyên tình trạng”. – Đúng không thể cải.

Thuấn móc Thiệp: “Tôi biết sẽ có nhiều người phản ứng lại điều tôi nói “trắng phớ” ra như thế nhưng ở đây nó là thực tế. Tôi chỉ nói ra một thực tế “tàn nhẫn” mà mọi người vẫn tránh né hoặc “không nỡ” nói ra mà thôi. Đã đến lúc người ta phải nhìn vào thực tế để thúc đẩy văn học cũng như thúc đẩy xã hội phát triển” ( Nguyễn Huy Thiệp – Trò Truyện Với Hoa ThủyTiên.) – Cũng đúng không thể cải.

Từ hàng loạt những tố cáo, mạ lị, gợi ý trên, Bùi Công Thuấn kết luận: “Thiệp đã nhận mình là thằng đểu, thằng tởm lợm,… được cài cắm trong câu chuyện của Thiệp thì chính Thiệp là con người ấy”..

Sao ngây thơ thế nhà phê bình thứ thiệt ông Buì Công Thuấn ơi!
Một trí thức dám nhận mình làm cái nghề tởm lợm, nhất định anh ta không bao giờ tởm lợm. Vì khi anh ta đã nhận ra nó, nhất định anh ta không bao giờ muốn sống chung với nó. Tởm lợm là tởm lợm của ai kia?

Thiệp nói, chính trị bản chất là tởm lợm, thế nhưng nhiều kẻ không nhận ra lại cứ tưởng mình đang cứu nước cứu dân, siêu vong, độ thế, kẻ đó mới đích thị là kẻ tởm lợm. Nhà phê bình Bùi Công Thuấn chẳng lẽ lại không hiểu cái ngầm ý “nói zậy mà không phải zậy” của Nguyễn Huy Thiệp sao?. Không hiểu Thiệp mà bỏ Thiệp thì oan cho Thiệp quá. Ông Thuấn nói “Tôi đã từ bỏ Nguyễn Huy Thiệp từ lâu lắm rồi! Bởi chẳng nên mất thì giờ vào những thứ vô bổ mà Thiệp chào mời”. Tôi tin ở đây ông Thuấn nói như vậy, thực chất cũng lại là “nói zậy mà không phải zậy” vì quên “từ lâu lắm rồi!”, sao Nguyễn Văn Lưu vừa bắn viên đại bác bẩn đầu tiên vào Nguyễn Huy Thiệp, Bùi Công Thuấn đã vội “nhảy” vào ngay và cũng có tới hai phát súng bẩn?

Đối với cách phê bình của ông Thuấn còn nhiều điều phải bàn, nhưng trích vài ý như thế là biết ông Thuấn là người thuộc hàng ngũ nào rồi, trình độ nào rồi, tư tưởng nào rồi.

4. Lời kết cho ba ông:

Mấy câu thơ không phải của Thiệp viết nhưng Thiệp dùng nó trong tác phẩm của mình:

“Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/
Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào lồn/
Vợ tôi nửa dại nửa khôn/
Hôm nay lại bảo: Dí lồn vào thơ!”

Thiệp đàng hoàng viết chữ lồn chứ không như Bùi Công Thuấn dù trích nhưng cũng chí dám viết chữ lồn bằng el, chấm, chấm, chấm – l…. Cụ thể như sau:


“Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/
Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/
Vợ tôi nửa dại nửa khôn/
Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ!”

Ông Lưu, ông Xuân, ông Thuấn cho rằng, đấy là qúa tục và quá bẩn và ba ông không chịu được khi thơ phú lại bị dí vào lồn.


Đền thơ Linga - Yoni ở Thánh địa Mỹ Sơn- Di sản văn hóa vật thể thế giới.

Thưa nhà giám đốc Nhà xuất bản Văn học Nguyễn Văn Lưu, thưa nhà giáo Lê Xuân, Nhà phê bình thứ thiệt Bùi Công Thuấn:

Cái quan niệm nhìn xem, gọi là ngự lãm; uống gọi là ngự tửu; ăn gọi là ngự thiện… của mấy ông đồ nho gàn “dựng” lên từ xửa, từ xưa cũng cần phải có “Biện chứng pháp Mac –Lê”, “Khoa học Mac- Lê” soi vào cho nó ra nhẽ. Tôi cho đây là những quan niệm hủ bại của đám nhà nho điên khùng, muốn cao thượng hơn người khác mà biến thái ra nó. Cứ như đã là nhà nho rồi thì nhất nhất con người không phải chui ra từ lồn, rồi khi trưởng thành không phải yêu nhau và ân ái với nhau ở lồn. Hiện đại, văn minh, văn hóa là sự vật nào phải gọi đúng tên sự vật ấy. Cái tay, cái mắt, cái cặc, cái lồn.. là những bộ phận có nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con người sinh ra, lớn lên và kết thúc. Chúng hoàn toàn bình đẵng và liên kết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất là con người. Chẳng có cái nào có văn hóa hơn cái nào; chẳng có cái nào đáng gọi, cái nào không đáng gọi. Khoa học văn minh chỉ cần xác định giá trị của nó, cái nào hơn cái nào mà thôi. Tôi dám chắc rằng, trong Đời thì cặc, lồn là cái có giá trị nhất. Chúa Gie-su khi sáng tạo ra con người đã quyết sáng tạo ra nó như vậy và đã gửi gắm vào nó như vậy. Nếu không có nó, đàn ông yêu đàn bà bằng cách nào? Lòai người tồn tại và ngày một phát triển bằng cách nào? Lồn sạch sẽ và vĩ đại hơn mấy ông đồ gàn, mấy ông đương đại sĩ diện rởm rất nhiều.

Cho nên, từ xưa dân tộc này đã dựng tượng la liệt ở khắp nơi để thờ lồn và cặc. Những bảo vật ấy vẫn còn “trơ gan cùng tuế nguyệt” ở khắp đất nước ta, tập trung nhiều ở miền Trung, hẳn ba ông đã rõ.

Cho nên, Nguyễn Huy Thiệp gọi lồn là lồn và không ngại ngần bảo các bà vợ đem thơ dí vào lồn, tức là dí vào cái chỗ sạch sẽ nhất, giá trị nhất và vĩ đại nhất ấy. Thiệp hồn nhiên gọi sự vật nào đúng tên sự vật ấy, Thiệp đã là người đàng hòang nhất, tử tế nhất, khoa học nhất, biện chứng nhất và biết quý trọng cái gì cần phải quý trọng nhất. Nguyễn Văn Lưu, Lê Xuân và Bùi Công Thuấn thì không. Ba ông cho rằng, lồn là một thứ ghê tởn, nhơ bẩn, mở mồn ra nói cũng không được, nên đã hạ sát, nhục mạ Nguyễn Huy Thiệp hết lời. Nguyễn Văn Lưu ơi, Lê Xuân và Bùi Công Thuấn ơi, tôi cá 1 ăn vô cùng với ba ông rằng, bất kỳ một con người nào, khi dùng nước đái của bất kỳ một người đàn bà nào đem xoa lên cái mặt người, nhất định trên những cái mặt ấy sẽ lập tức hiện lên hình ảnh cái lồn đã sinh ra ông ta; hình ảnh cái lồn mà bất kỳ một người đàn ông tử tế nào đêm đêm vẫn vuốt ve liếm láp và hú hí với nó. Nó là sự hiện diện của “tội tổ tông mà" mà ba ông. Tôi tin, sau khi làm như vậy, rất có thể ba ông phải xin lỗi ông Thiệp và phải cảm ơn ông Thiệp nữa, vì khi các ông đã làm như thế, ít nhất trong ngày mai, các ông sẽ được vợ các ông cho “ăn ngon, ngủ yên” được một ngày. Thế là đủ cho ba ông rồi đấy.

Một ngày tháng 4.2012 – P. T

Friday, April 27, 2012

Hãy Chết Đi, Nguyễn Huy Thiệp...






Cách đây hai tuần, trong khi đang tập nhị khúc, một bộ môn bắt buộc của Taekwondo, tôi bỗng phát hiện ra ngực mình nổi lên một cục nhỏ như khối u. Khối u rất kỳ dị. Ngự ngay giữa phần hõm của lõm ngực. Chính xác, đầu hơi chếch về bên phải một chút. Đụng vào nhói đau và khi ấn nó đã chạy như có chân. Sự phát hiện bất ngờ làm tôi tê điếng. Dù rất hoảng hốt, tôi vẫn không nói với ai. Chỉ thận trọng theo dõi. Cảm giác đầu tiên ập vào tôi và đánh chiếm lớn dần sau đó là những gương mặt đã chết vì căn bệnh ung thư. Thời gian vừa qua tôi đã tiễn đưa khá nhiều bạn bè và có người thân yêu đến mức sau đó tôi buộc phải gác lại tất cả công việc riêng để ngồi vào bàn thực hiện Di cảo để lại theo lời trăn trối của họ. Không lẽ bây giờ tới lượt mình sao? Tôi không dám nghĩ về điều đó. Vậy khối u chạy trong ngực là gì?


Trước cái chết hiển dụ, tôi thấy mình chưa chuẩn bị được gì và quá bỡ ngỡ. Vợ dại, con thơ, nợ nần, cơm áo… là những “nỗi đau” trần thế nhưng lúc này nghe nhói lòng nếu mình có vé bị loại khỏi cuộc chơi, không còn quyền “can dự” nữa! Ôi cái cuộc đời dã man, mật ngọt, đau đớn và phù du. Nó là cái gì mà chúng ta cứ níu kéo, chì chiết mãi thế? Không thể dứt bỏ!... Nó bí ẩn khôn khuây, tuyệt vọng và tàn bạo! Nó như cái thế giới hỗn loạn được xây dựng và cắt ra từ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đó là Quỷ ở với người, Cún, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Thương tất cả cho đời bạc [1]...

Trong thời gian đấu tranh để có thể đủ cam đảm đến bệnh viện xét nghiệm, tôi đã phải đối mặt với các câu hỏi những gì đã từng thụ hưởng về văn hóa trong cuộc đời quá ngắn này liệu còn ý nghĩa? Kẻ lên đường sau bao nhọc nhằn “chiến đấu” những gì mang theo và ai mới là người đáng kể? Thật bất ngờ ở “điểm chết” này tôi đã nhận ra tầm vóc hết sức lớn lao trong những ẩn ngữ văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Y, con phù du lớn nhất. Một tên ngoại hạng. Một tay ngoại cỡ. Một bút pháp điếm loạn viết về cái ác mà không ghê tay. Có thể xem y như người viết về cái ác thành công nhất từ trước đến nay của văn chương chúng ta. Y có thể làm nổi khùng và chửi toáng lên với bất cứ bậc khả kính nào khi đọc văn y nhưng sau đó lại lặng lẽ tẩm ngẩm tầm ngầm đi tìm những tác phẩm mới của y để quét không sót một chữ! Với tôi, trước cái chết, y là tay đáng kể duy nhất và cuối cùng. Vệt sao băng quét qua cuộc đời...

Lạy ơn trên, thật may mắn, khối u của tôi sau gần một tuần đấu tranh đến bệnh viện và siêu âm xét nghiệm kỹ chỉ là vấn đề nhỏ trong y học. Đó là chiếc xương “xương lưỡi kiếm” ẩn sâu trong ngực mà tên Adam nào cũng có. Khi bạn tập tành quá sức như luyện võ, cử tạ… tự khắc nó sẽ “cộm” lên. Sau đó tự khắc nó sẽ lặn đi! Lưỡi kiếm ơi là lưỡi kiếm! Nhưng rõ ràng là tôi không còn bình yên được nữa! Một lưỡi kiếm của Nguyễn Huy Thiệp đã xẹt ngang hồn tôi…

***

Nhiều nhà phê bình vẫn phàn nàn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn không có tim hay không có lương tâm. Sao y có thể say mê tẩn mẩn tỉ mỉ về cái ác đến bệnh hoạn vậy? Tôi thực sự nghĩ rằng đó là vì tấm lòng và tình yêu cuộc sống quá lớn của ông! Trong tác phẩm mới nhất, Vong bướm cũng thể hiện rất rõ điều ấy!

Người bạn vong niên của Nguyễn Huy Thiệp là nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh, có nói về tính sa đọa của Thiệp gần đây. “Bạn có để ý hai tác phẩm mới của Thiệp không? Toàn ăn chơi, toàn chim bướm! Đó là dấu hiệu của kẻ sắp rời bỏ và tiếc nuối cuộc trần gian này…”. Giăng lưới bắt chim [2] - tập tiểu luận phê bình và Vong bướm - kịch bản chèo, liệu điều ấy có thực không?

Trước hết, phải nhìn nhận khi viết Vong Bướm quan niệm về thi sĩ và nghiệp văn với Nguyễn Huy Thiệp vẫn là hết sức nhăng nhố. Là người từng gây ra những cuộc tranh luận dữ dội “Trò chuyện với hoa thủy tiên” ông đã chỉ trích thẳng về thói rẻ rúng và đốn mạt của bọn làm thơ bằng mấy câu lục bát của Nguyễn Bảo Sinh “Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ / Hôm qua nó bảo dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn / Hôm nay lại bảo dí l… vào thơ”. Và đây, ông viết “Tôi không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với thơ nhưng trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó; nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa…” [3].

Và ông rất tâm đắc với ghi chú của một viên cò người Pháp về nghề văn - từ một tư liệu tìm thấy trong hồ sơ của nhà văn Giông tố, Số đỏ nổi tiếng: - “Viên cò thời Pháp thuộc ghi vào hồ sơ Vũ Trọng Phụng “Vô nghề nghiệp”. Từ trạng thái vô nghề nghiệp chuyển sang trạng thái lưu manh ranh giới chỉ là một cái tặc lưỡi…” [4].




Với Vong bướm, rõ ràng là Nguyễn Huy Thiệp vẫn theo đuổi cách nhìn phúng dụ và tinh quái ấy! Cách viết ám chỉ bọn vô công rồi nghề, than mây khóc gió, chỉ rặt tài vặt móc méo chặt câu bẻ chữ dăm câu vần vè xuôi ngược làm trò và rốt cuộc, cuộc đời cuộc đời của đám lưu manh, du thủ du ấy thực chẳng ra gì! Đáng thương thay! Có vẻ như Thiệp muốn dạy bọn làm thơ “không cẩn thận là chuốc vào danh hão, hại thân, thân khổ đấy!...” [5]. Kiểu của Thiệp xưa nay vẫn thế khi viết về các nhà thơ, và đặc biệt là thơ Việt Nam!

Tuy nhiên khi đọc Vong bướm, một lần nữa tôi nhận ra Thiệp là người ít tìm được khoái cảm khi làm tình, lúc chim bướm (!). Trong văn xuôi của ông thể hiện nghiêm trọng điều ấy. Bởi những cuộc tình của ông thường nghiêng về âm mưu, chớp nhoáng, chiếm dụng, cưỡng đoạt, cộc cằn, tục tằn, nóng nảy, thô bạo… thể hiện cái phần thú, phần xác nhiều hơn phần hồn. Mà tình yêu đích thực vẫn do sự thăng hoa của cả hai phần thể xác và tâm hồn cộng lại!Vong bướm tập hợp rất nhiều “gái” - cánh bướm - trên sân khấu nhưng không có cuộc “làm tình” nào ra trò (!). Bởi cốt còn bầm dập, khốn nạn chẳng ăn thua gì huống là vong! Tôi nhớ nhà văn Tô Hoài từng vẽ chân dung thi sĩ Nguyễn Bính, một người bạn cùng thế hệ ông như sau: "thấy gái như ếch vồ hoa, quạ vào chuồng lợn” [6]. Nguyễn Huy Thiệp viết về Nguyễn Bính nhưng lại chia đôi Đạo - Đời và hoàn toàn không thấy say đắm, khoái thú vì tình yêu để nguyện nếu chết thì cũng sẽ hóa thân thành bươm bướm bay lượn trên những giấc mơ ái ân cũng chính là cách "đạt đạo" vậy! Cái vẻ bao dung dáng dấp đại ca về vẻ "đáng thương", "nhầm lẫn" theo cách nhìn "cần được giáo dục cho sáng mắt ra" của Nguyễn Huy Thiệp có vẻ thích hợp cho một trại cải huấn tình dục tuổi mới lớn hơn những nghệ sĩ dấn thân.



Vì thế, tôi không thích lắm cái Đạo thuần khiết hay quá tỉnh táo mà ông đặt ra trong Vong bướm. Khi mà trước đó chính ông nhận ra cái chớp mắt sắc sắc không không, vô thường của nó: “Mê mê sảng sảng bon chen hận thù” hay cắt gọt không thừa thãi nén trong mấy câu lục bát quá đỗi tài hoa về cái thói đời nhăng nhố “Ốm đau tử biệt sinh ly / Chợ chiều băm mặt cười khì thế nhân / Đời người giấc mộng phù vân / Chuyến tàu ga xép dừng chân nơi nào…”. Ở điểm này đã phá tan các lớp ngôn ngữ “giải chấp” những sai lầm, trầm luân, khổ đau của kiếp người nghệ sĩ - mà theo cách giải thích của Thiệp - chính là phiên bản cuộc đời của thi sĩ Nguyễn Bính.

Để làm gì? Theo tôi đây là cuộc “giải cứu” vô nghĩa. Theo tôi, cái “đạo” lớn nhất của Nguyễn Bính là đã “phấn đấu” cho dù truân chuyên, bầm dập, “dưới đáy địa ngục”… để trở thành một cánh bướm chấp chới tuyệt đẹp trong vườn dâu (bể) của thi ca Việt Nam. Đạo và đắc đạo chính là chỗ ấy chứ không nằm ở những biện minh, kiểu cảnh, duy lý Điệp Lang ký khế ước với Ma vương làm bạn với bốn con quỷ Tửu (rượu chè), Sắc (trai gái), Yên (ma túy), Đổ (cờ bạc) bốn ngọn núi Sinh - Lão - Bệnh - Tử đến với ánh sáng Chân - Thiện - Mỹ.

Tôi vẫn thích cái “ấm ớ” hơi lơ ngơ lẩn ngẩn của Trang Chu, hỏi một giấc mộng mình hóa bướm hay bướm đã hóa mình. Vong bướm còn chưa thuyết phục tôi ở sơ đồ thân trò hay tích trò đòi hỏi những điểm yếu, điểm mạnh khi xây dựng một cấu trúc chỉnh thể lý tưởng về chèo như chính Thiệp đã viết, “miếng cháo văn hóa tinh thần cho người ốm yếu”, vì hầu hết kịch bản chèo cổ chỉ truyền khẩu chứ không lưu giữ bằng văn tự.

Nhưng thực sự, tác phẩm đã ru hồn tôi bằng những câu thơ oán thán rất “khả năng” của một nhà văn danh tiếng trên văn đàn, cho thấy khả năng “vần vè” của ông xuất chúng, thượng thừa: “Thương thay số kiếp con người / Trầm luân bể khổ cuộc đời đa đoan” hay “Vong này đích thực vong tình / Xem ra vong bướm ở mình ở ta / Đạo nào tất cả cũng là / Âm dương đực cái đàn bà đàn ông”… Rõ ràng cái còn lại của Vong bướm không phải bản chất như tác giả cố tình lý giải mà chỉ là hiện tượng. Sự xuất thần của những câu thơ!

Kịch bản chèo Truyền thuyết tìm vua theo tôi là sắc sảo hơn, đúng chất Nguyễn Huy Thiệp hơn khi ông trở về đề tài quen thuộc của mình đó là chính trị. Nếu so sánh về tâm - lực, tôi nghĩ ông đầu tư và gửi gắm vào vở chèo này nhiều hơn Vong bướm. Tuy viết về một câu chuyện lịch sử còn lưu lại trong Sử ký, xảy ra từ thế kỷ 16, “nhà Lê suy vong, nhà Mạc truất ngôi, Mạc Đăng Dung khởi chuyện động giời, giết Cung Hoàng tiếm ngôi Hoàng đế”. Tướng quân Nguyễn Kim đi tìm chúa Chổm, giọt máu của nhà Lê để tìm vua hành đạo. Tuy chèo cổ nhưng qua ngòi bút tài hoa của nhà văn, dấu nối giữa truyền thống và hiện đại rất mạch lạc, biến hóa, nhuần nhuyễn. Nhân vật, lớp lang, đối thoại, chữ nghĩa… được “dụng công” nhiều hơn.

Có những tiểu xảo mạnh bạo như Nguyễn Huy Thiệp đã cho các nhân vật là Hề và Thầy bói phát ngôn như sau:“HỀ: Ông ơi, ông có thấy Rồng đen quấn cột ở đâu đây không? THẦY BÓI: Tìm ai thì bỏ tiền vào cái đĩa này tôi mách cho! HẾ: Thế bỏ bao nhiêu?-THẦY BÓI: Thôi cứ tùy tâm! Cứ bỏ 100 đô-la Mỹ là được!- HỀ: (nhảy dựng lên) Chết! Ta đang ở trong vô minh lịch sử sao lại tiêu tiền hiện đại thế này? - THẦY BÓI: Lịch sử chẳng qua chỉ là cặn bã của người xưa thôi! Lịch sử mà không có lợi cho “cái đang là” thì nghĩa lý gì! Nào bỏ tiền vào đây!... ”. Dấu ấn và thế lực của đồng tiền lúc nào rõ rệt, làm ngả nghiêng thời đại. “Lịch sử là cặn bã của người xưa” đó là một cái nhìn táo bạo.

Tuy nhiên ở một đoạn khác khi Nguyễn Huy Thiệp đòi “chém phăng lịch sử” thì bông phèng và tếu táo: “HỀ: Gian nan mới tỏ chí anh hùng. Lịch sử giao cho toàn việc nặng. Tớ mà tóm được, phải giết phăng - TIẾNG ĐẾ: Giết phăng ai đấy? HỀ: Giết phăng lịch sử. TIẾNG ĐẾ: Sao lại giết phăng lịch sử? - HỀ: Lịch sử là thằng đéo nào? Giao toàn việc nặng cho tao thế này? Không bắt, không giết phăng đi thì để làm gì?...”. Chữ Đạo đặt ra khi tướng quân Nguyễn Kim đi tìm chúa Chổm như tìm một đấng minh quân, một lý tưởng để ký thác ý nghĩa cuộc sống. Nhưng hành trình đi tìm “vua” đã được xây dựng trên bốn đạo quân Vô Dụng, Vô Đức, Vô Sản, Vô Nhân. Nhà văn đã cho nhân vật nói “Ta lấy hưng quốc dấy nghĩa! Thế là bọn họ tìm đến mà thôi!...”. Câu hỏi như câu trả lời “sao Vô Dụng còn mà Hữu Dụng chết?” như nỗi trêu ngươi muôn đời và thách thức kẻ tri thức và người nghệ sĩ. Nó còn được đúc kết bàng bạc trong câu lục bát “Nay hoàng hôn mai hôn hoàng / Tử sinh thôi cũng chẳng màng dở hay…”.

Hãy đọc để hiểu thêm cách nhìn và từ đây ngẫm nghĩ cách hư cấu của Nguyễn Huy Thiệp khi viết về những nhân vật lịch sử hay có liên quan đến lịch sử: “Kho tàng truyện cổ ở ta đầy rẫy những thằng ngốc, thằng khù khờ nhưng rốt cuộc đều “ăn nên làm ra”…Những anh hùng thì bị chém cổ mà phụ nữ thì đức hạnh tuyệt vời. Giữa cái thế giới người trong truyện cổ và thế giới người của đời thực gây nên nỗi hoang mang dịu ngọt…” [7].

***

Dù sao đi nữa, Vong bướm vẫn cho thấy tài năng, cốt cách nghệ sĩ lớn ở Nguyễn Huy Thiệp. Ông là người có đạo đức, luôn ý thức và đã giữ được phẩm hạnh của mình. Đó là luôn thể nghiệm trên địa hạt chữ nghĩa, cày xới đắc lực trên cánh đồng văn chương. Thiệp là người duy nhất hiện nay cho thấy sự nặng ký, tầm cỡ, đa dạng của ngòi bút ở nhiều thể loại truyện ngắn, kịch, tiểu luận phê bình, tiểu thuyết… và bây giờ là chèo.

Và cũng chính vì lẽ đó mà tôi cũng mong muốn Nguyễn Huy Thiệp cần phải… chết đi! Bởi lẽ từ khi ông xuất hiện, văn đàn không có nhân vật nào đáng kể nữa! Tôi cho rằng Thiệp là người của trời. Sự có mặt của ông trong làng văn chương hôm nay là một biến thiên của trời đất, vũ trụ, nó là duyên nghiệp, không phải muốn là được. Bởi ông viết gì cũng hay, cũng quyến rũ. Cái hay của một bậc thức giả, thâm thúy, thâm nho và thay mặt Thượng đế đánh thức một phía tối nào đó trong tâm hồn chúng ta. Ông đã rắc ánh sáng vào vết thương, vào sự tối tăm của mê lộ, một hành trình chênh vênh của kiếp người u u minh minh, giữa trần gian và địa ngục. Ông lặn sâu vào những vỉa kinh hoàng nhất của đời sống để tạc vào câu chữ.

Để tạm khép lại bài này, tôi nhắc lại một khái niệm về Muối, trong một tiểu luận đã viết của Nguyễn Huy Thiệp: “Trong tác phẩm của mình những nhà văn giỏi bao giờ cũng có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết. Muối xát lòng người đọc một thì xát lòng người viết ra nó mười lần. Văn học ở ta rất ít muối…” [8].

Cám ơn nhà văn. Một lần nữa trên hành trình sáng tạo, ông đã gửi đến cho chúng ta niềm tin vào khát vọng ngày mai tươi đẹp dẫu hôm nay còn quá nhiều giả dối. Vong bướm, là một tác phẩm có nhiều Muối!

Sài Gòn, tháng 3/2012

[1] Tên những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
[2] Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp - Nxb. Thanh Niên & Phương Đông, 7.2010
[3] Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (bài 3) - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp
[4] Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.
[5] Truyền thuyết tìm vua - kịch bản chèo Nguyễn Huy Thiệp.
[6] Cát bụi chân ai – Hồi Ký Tô Hoài (Nxb. Hội Nhà Văn 2005)
[7] Nhà văn và bốn trùm “mafia” - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.
[8] Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.








________________________________________________________________







DÂN CHƠI... ĐI MUA XE HƠI!










Tuesday, April 24, 2012

Tài năng và nhân cách: Phải chăng Phạm Duy đã giết Phạm Duy?

Tác giả: Nguyễn Văn Lục




Phạm Duy. Ảnh Việt Báo


Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết? Sở dĩ cần có sự sửa chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học Hubold State University. Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)

(1) Xin vào Google kiếm tìm



Phải nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng khiến tôi giật mình. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô tình không để ý tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.

Nhưng cũng vì thế, ông tránh đề cập đến những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc TCS hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này đã được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết: "Một quãng đời của TCS” trong đó có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên bụi đỏ sương mù”. Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John.C Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những tranh luận ngay sau khi TCS chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận: Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.

Nhưng trong hoàn cảnh VN- một hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết trong gang tấc- Không thể nào mà không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn lựa cho mỗi người VN. Cho nên những bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy- dù là mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính nhân bản hay triết học cao - cũng xuất phát từ những hoàn cảnh chiến tranh VN. Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của chiến tranh thì vẫn là chiến tranh nào? Xác chết ấy do đâu mà đến?

Mỗi xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ con- dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết bụi thì cũng có một danh tính, một lý lịch. Và kẻ cầm súng nào thì cũng có một sắc phục, một mầu cờ... Không có cái chết chung chung, chết tình cờ, nhưng không !! Vấn đề là con ngươi đứng ở góc độ nào để nhìn những xác chết ấy.

Bài viết về Phạm Duy của ông John. C. Schafer chủ yếu dựa trên Hồi ký của Phạm Duy mà ông dùng làm tựa đề: The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy (Tất cả những bài viết trên đây, mọi người có thể tìm thấy dễ dàng khi bấm vào Google.com sẽ tìm đọc được, nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn) . Vì thế phần không nhỏ của bài viết đưa ra thật đầy đủ chi tiết về những mối tình lớn nhỏ của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá ông dựa thêm vào cuốn Ngàn lời ca thì sẽ làm rõ hơn trong trường hợp nào, Phạm Duy đã sáng tác được bài nọ, bài kia.

Tuy nhiên vì tránh những mặt tiêu cực trong viêc sàng tác của Phạm Duy, ông J.C. Schafer không triển khai đủ sự vay mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội của Phạm Duy.v.v.

Vì thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách bàng quan của giáo sư John. C. Schafer vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại cuộc, đứng ngoài nhìn vào. Mặc dù ông đà nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ VN, rất am tường văn hóa VN, yêu mến VN nữa. Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc xử dung ngôn từ một cách diệu ảo của TCS trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ nhìn những nhạc sĩ này như những nghệ nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng tác của họ. Đó là họ đang sống, đang sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh. Chính hoàn cảnh chiến tranh đã khơi nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của ông J.C Schafer vì thế thiếu một sự quân bình cần thiết về công việc sáng tác và hoàn cảnh sáng tác.

Bài viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến trình sáng tác một bản nhạc của ông trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.

Nói về “cái chết” của Phạm Duy, tôi chỉ lặp lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói truyện tại trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn vào ngày 6-6-1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào?

Bài nói truyện của Nguyễn Trọng Văn nói về cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà NTV coi là sự phản bội lý tưởng và một cách lôgich Phạm Duy bị coi như đã chết- một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống .. Phần bài viết này phản biện lại bài viết của Nguyễn Trọng Văn ..Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị, nhưng nếu PD có chết thì cái chết ấy ở phạm vi đức lý giữa tài năng và nhân cách của nhạc sĩ PD. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.

Bài nói chuyện của NTV thời ấy hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi vì ít nhạc sĩ nào có thể so bì được với Phạm Duy.


Cùng lắm trừ một người. Trong cuốn Về một quãng đời của TCS (tác giả Nguyễn Thanh Ty gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở Blao, TCS có kể về Sài Gòn bán bản quyền bài hát ” Chiều một mình qua phố” cho Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là 3000 đồng. TCS kỳ kèo thì được Duy Khánh trả lời: “Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi”(2)

(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.



Co nên chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài thì Phạm Duy là một người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến nay là một người quốc gia “Chống Cộng”. Đánh đúng vào cái thành trì tiêu biểu là giới trí thức thành thị miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo tưởng của một ý thức hệ Quốc Gia trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.


1. Theo Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết vì phản bội lại kháng chiến?

* Phạm Duy chối bỏ kháng chiến



Nguyễn Trọng Văn đã nghĩ như thế. Đã viết để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho rằng đã có rất nhiều thanh niên đã theo kháng chiến và sau đó đã dời bỏ kháng chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến của Phạm Duy là khác. NTV viết: “Trí thức theo Cách Mạng và bỏ cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt khe".

Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.(3)

(3) Trích: Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết như thế nào, nxb Văn Mới, trích tóm tắt các trang 33-34


Phải chăng Phạm Duy đã sửa toàn bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến? Không hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đã tổng quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí Minh, Vệ Quốc quân vv.. và để cho thuận nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu Và Nguyễn Trọng Văn kết luận:


Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông hoa đó đã tự chọn cái chết như vậy.
Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người".(4)

(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41


Nguyễn Trọng Văn đã dùng cả một cuốn sách để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông đã sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén chính trị. Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu cẫu đòi hỏi cấp thời của một tình thế?

Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế.


Và người ta đã chẳng ngại ngùng gì nói đến một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết Phạm Duy hiểu thâm ý của lời mỉa mai này.

Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi tình quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện tình bông lơn, tán tỉnh nhau.


Lời cũ: 
Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh

Nay đổi ra:

Bao giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang


Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu thì kể cũng lạ. Có ép ý, ép lời không?

Trong Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên:

Lời cũ: Quân cướp tham ô ngày nao đã chết không ngờ

Nay đổi ra: Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa tình

- Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đã được sửa đổi một cách không nuối tiếc với ba lần in và sửa khác nhau:

Lời cũ: 
Nhà thì Tây đốt còn đâu
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)

Lời mới: tuyển tập xuất bản tại Việt Nam

Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ 
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa


Từ đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ. Chữ nó được sửa lại thì nó là ai đây? Nó đây bây giờ phải được hiểu là Việt công- quân đội cụ Hồ -.


Nguyễn Trọng Văn cũng đã hết lời ca ngợi tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa tình tìm kiếm hạnh phúc trên dòng sông sâu. Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.


Lời cũ: 
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)

Lời mới:
Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …


Nguyễn Trọng Văn kết luận:

Các sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tinh, chỉ còn là những bản của những tên lại cái, đồng cô bóng cậu” .(5)

(5) Trích NTV, Ibid, trang 34

Nhưng nếu NTV biết rằng sau này ở hải ngoại, tôi lại tìm thấy trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách giữ lại nguyên văn lời cũ như sau:

Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)

(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.

Sự thay đổi rõ ràng như thế đặt ra vấn đề nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về thành, Phạm Duy có thể cứ giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai có lời trách cứ ông. Nhưng khi có ý định về VN, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi ca từ để đẹp lòng Hà Nôi và tuyên bố vung vít “chửi” cộng đồng hải ngoại là không chấp nhận được. Xóa bỏ, thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại lời cũ: Anh Vệ Quốc quân.

Đã mấy ai có thể làm được như Phạm Duy? Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lý khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như một thứ điếm sang.

Nhắc lại trong phần đầu cuốn Hồi ký của ông viết vê ông bố: nhà văn Phạm Duy Tốn để thấy nhân cách bố và con khác nhau lắm. Ông nhăc lại những lời nhận xét và khen tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lãng đã viết những lời trân trọng về ông Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn mà nhân cách của họ không thể chối cãi được như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Đỗ Mục thì ông Phạm Duy quả là người con bất xứng.

Cũng khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm, ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang tàn, phá phách, “quậy” rất sớm.

Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đã chết như thế nào thì lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi ký. Nếu Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc hồi ký rồi thì cũng có thể có cái nhìn khác về Phạm Duy.

Và có thể vì có cơ hội đọc lại Hồi ký Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nhìn lại quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.

Trong hồi ký 1, ông Phạm Duy viết như thế này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch sông Lô. “Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông Lô của Phạm Duy". Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.

Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng thì có phí phạm không?

Phạm Duy viết tiếp. “Nói về cả một chiến dịch thì chẳng nhừng thắng lợi sông Lô chỉ là những chiến công cục bộ, bởi vì vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa, gọng kìm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn còn rất mạnh… Những người phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai tò mò – như tôi – đi tìm đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một dòng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức Lương Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng”.(7)

(7) Trích Phạm Duy, Hồi ký 1, thời Cách mạng kháng chiến

Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong thời kỳ kháng chiến.

Cho nên, không lạ gì khi cần, PD đã không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác gì Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đã nói huỵch tẹt ra là ông đã viết phịa, không hề ra mặt trận.


Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu cũng đã làm thơ phịa. Đã gọi là sáng tác phịa thì việc thay dổi lời ca còn có gì được gọi là phản bội? Phải chăng Nguyễn Trọng Văn đã quá lý tưởng hóa những ý hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng vì thế lời kết án có thêm trọng lượng.

Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.


Cho nên Phạm Duy không theo Kháng chiến theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn lựa làm sao có phản bội?

** Phạm Duy không phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nhìn lại

Nguyễn Trọng Văn đã tự chọn cho mình một góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.


Và đã có chỗ kết luận: “Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang”.(..) Nhạc sĩ Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đã chế(..) Ông đã quay lưng trở lại với dân tộc, với chúng ta, ông đã ra đi, ông đã chết “..(08)
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45


Nhưng nặng hơn nữa, NTV viết:


Thân phận Phạm Duy guống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều, dẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai" .(09)

(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130


Cho nên, dưới mắt NTV, dinh tê đã là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, vì đã sửa lại lời ca trong các bài hát của chính mình. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến là một phản bội thì thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ tố cáo sự bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh là một phản bộ. Và vì thế đã có một số không ít những thanh niên đã đi theo kháng chiến, đã thất vọng và đã dinh tê.

Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đã chót đi theo kháng chiến, vì đã bị lừa.

Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàigòn, đã có nhiều người cũng đã từng đi theo kháng chiến và đã bỏ kháng chiến. Võ Phiến ở Bình Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc Gia, Bình Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đã sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con. Hòa Bình 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu thì sau nắm đài phát thanh Sài Gòn.

Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở tòa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.

Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Hòa đã từng đi theo kháng chiến như quý ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT Ngô đình Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đã từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như thế nào.

Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đã từng tham gia và họat động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có mình Phạm Duy là người phản bội còn những Trần Chánh Thành, Võ Phiến, Hoàng Thi Thơ thì không?


Vì thế, họa sĩ Tạ Tỵ đã phản biện lại như sau:
Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự " (10)

(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129


Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đã trích dẫn thêm ý kiến của Thế Uyên như sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đòi hỏi thế này thế kia. Tôi thường không đồng ý với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy cất lên hơn 20 năm rồi, đã đóng góp vào các công trình lớn của dân tộc và hiên diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc, người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm anh hùng cả đời được”(11)

(11) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, Ibid..

Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời thì nhiều người đã nhìn thấy cái đuôi cộng sả ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nhìn một chiều, méo mó, thiên lệch không chối cãi được. Dám NTV đã được chỉ định để viết như thế!! Vì thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả tín.

Bên cạnh Tạ Tỵ, còn có Cao Thanh Tùng mà ý kiến được coi là dung hòa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ý việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ý với Thế Uyên như trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nã Đại Georges E. Gauthier với bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.


Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có VN thì tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có Phạm Duy”. Ông nhạc sĩ Gia Nã Đại viết tiếp; "Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi vì con người đã cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu”. (12)

(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971


Cuốn sách của NTV như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đã bị trung hòa và loãng đi nhiều khi có một số ý kiến phản biện như trên.

Nhận xét thực tế


Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ còn là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đã *hồi cư*.

Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.

Vì thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đã sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, còn gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đã dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đã tụ tập về Phát Diệm.

60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng tình hình và nhất là chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.

Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là trường hợp của Phạm Duy.

Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Phòng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngõ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngã đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn.

Đó là những người chạy trốn Pháp.

Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu Bình Trị Thiên Nam Ngãi.

Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ (danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ) đà bắt được một mật lệnh, ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu: "dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm” .

Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.

Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.

Thứ nhất, vì Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống còn cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Phòng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.

Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm còn có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.

Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đã có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi? Làm gì còn những Ngô Đình Nhu, Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu. Chính trường miền Nam đã hẳn là khác?

Lý do Phạm Duy “dinh tê”

Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ vãng và cũng có giọt nước mắt vui mừng vì nhìn thấy cái cái đồn bót phía Quốc Gia. Vui mừng vì biết rằng nay mình được giải thoát.

Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác gì với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp loại họ.

Không lẽ chỉ vì đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản?

Đọc hồi ký do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ý gia nhập đảng Cộng sản. Và vì thế, việc ông dinh tê là chuyện bình thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.

.- Thứ nhất, có thể chỉ là lý do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho mình và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết: "Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã * dinh tê*. Găp được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đòan Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành hay rester,ở lại ? Ở lại, rester thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh tật …. Trong lòng day dứt vì chuyện "ai làm cho ai phụ tình ai”?

.- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và: "Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự". Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy đã không có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ Khoát: "Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí."

Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết:

Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi .. Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm thì:

- Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điềun kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại . Một mình mày đi thôi . Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao”.(13)

(13)Trich Hồi ký Phạm Duy, tập hai, thời Cách Mạng kháng chiến

Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định tìm đường “dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.

Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.

- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết: "tôi cũng rất sung sướng được nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó còn thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần những đồng chí như anh.

Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đã thấy các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.

Vì thế, tôi không có ý muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội" (14).

(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid


Kể như đã rõ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đã có thể thất vọng về kháng chiến và vì thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được.

Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận thì chữ phản bội còn có ý nghĩa gì? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía mình, nói sao chả được.

-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.


Có bao nhiêu bản như thế? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo cách lý giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đã khám phá ra điều này cũng đã là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.

Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.


Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.


Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy !! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.


Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.

Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nhìn vấn đề, để phê phán?

2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác?

Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ?

Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu hò, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đã có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.

Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nhìn nhận của ông, ông đã cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:

Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)

(15) Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.


Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đã trở thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo.

Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..

Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Hòang Đạo. Sự liên hệ ý tưởng (associations des idées) đó đã trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10?

Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ý hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ý hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.

Lẽ dì nhiên, Phạm Duy không bao giờ nhìn nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đã bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cõi người hay thân phận người xuất phát từ những tình trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những dòng nhạc khá là tuyệt vời.

Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đã bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một cách vô tình và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động đã nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ròng đã có, Phạm Duy chuyển tải tài tình cái vốn đó thành vốn của mình một cách chẳng kém tài hoa.

Thôi thì cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc thì trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nhìn nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.

Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và dòng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.

Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.

Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng thì trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó?

Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đình Vận, Hữu Loan, Lê thị Ý, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ còn có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lộI qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rõ ràng là “mượn đỡ”.

Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.

Kể là có một không hai.

Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối tình với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có gì để nói nữa.

Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.

Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…


Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. Còn những trường hợp khác thì không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để tìm hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàigòn, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai thì tôi được biết có một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ?

Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đã được phổ nhạc mà theo ông: "Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ý, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ý thơ ” thôi cũng không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”

Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 gì đó. Rất tiếc, dù đã tìm kỹ, tôi cũng không tìm thấy bài hát này.


Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca thì hầu như Phạm Duy đã không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố tình quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.

Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên... đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.


Tôi đã thử tìm trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đã không tìm thấy bài nào trong năm bài ấy.

Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.


Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giã cõi đời thì PD cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.

Phạm Duy đã kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn tình của ông, Alice, con gái của một người tình cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đã làm đến 300 bài thơ tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương Tình ca với những giai điệu:

Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương


Và tiếp nối là Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.

Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc tình có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc. Thật là “thằng cha bội bạc”.

Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc tình của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính. (sentimental) Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc tình đầy não tính (cérébral) Chữ của Phạm Duy. Và có những người trẻ tuổi đã chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận

Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:

Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi

Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy:

Đừng nhìn em nữa anh ơi ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..

Alice đã không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không thể quên như thế được.

Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. Vì thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, vì ai là người đã chắp cánh cho họ?

Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đã chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người tình của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên tình sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm... và cuối cùng đến Hồng Nhung.

Hãy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hãy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.

Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những dòng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.

Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy thì đúng hơn!!

3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt

Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành trình nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có gì đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)

Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lãng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái gì đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.

Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.

Đối với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với hình ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nhìn nhận ra tác giả.

Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.

Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền thì làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.

Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.

** Giai đoạn kháng chiến ca

Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay còn được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so bì với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn gì cho cam. Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến thì may mắn còn được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hành…

Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người VN và được nhiêu người ưa thích.

Ít ra, trong giai đọan này, người ta còn nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầy vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa vì tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đòan quân Văn hóa.

Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đã không ai biết đến nữa.

** Giai đoạn 20 năm miền Nam.

Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổi như Hoài Trung (Phạm Đình Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như Tình Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).

Ban Hợp ca Thăng Long

Đây là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.

Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đã nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.

Những bản tình ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đã đư tên tuổi PD lên cao, cao thật cao.

Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền.

Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.


Về nội dung, nó nói lên được tình tự dân tộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu hò, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đã nhận xét: “Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đã xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đã gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, thì mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16)

(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200


Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..

Nhưng về hình thức, theo dõi toàn bộ bài hát thì thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần thì có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lý Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lý con sáo, hát bội trăng rằm, qua cầu gió bay dễ gây rung cảm vì nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ý đến lời đến điệu nhạc, điệu hò như thể là của mình.

Nhiều người đã bày tỏ sự không thích của mình. Ông đã xử dụng các câu hò, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ gì, nhiều người đã đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.

Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét: "Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ý nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ý quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ý đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ý nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của mình, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)

(17) Lê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65

Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài hành khúc, không còn dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm." (18)

(18) Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 67

Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đã mượn ý, mượn lời, rồi coi như của mình. Nhiều người như các quý ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đã có nhận xét rõ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.


Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau: "Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của mình, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng mình, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích" (19)

(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72

Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đã nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể vì thế mà mất gá trị đâu!!!

Nay lại nhập nhằng trong dân ca!!


Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại còn đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lý. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lãnh vực này sang lãnh vực khác. Mỗi lần thay đổi thì ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tý nào.

Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?

Tâm ca, Đạo ca, tục ca…

Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, vì đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đã mỗi ngày một rõ mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đã góp mặt và đã để lại những dấu ấn rõ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.


Phạm Duy kể trong Hồi ký, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngạ. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)

(19) Trích Hồi Ký Phạm Duy, tập ba, chươg14

Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.

Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, "hò hét” , “tuyên truyền”. Chẳng có gì là Tâm ca cả .

Thơ đó thể hiện được tình tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. Tình con người, tình tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như hòa trộn vào nhau.

Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Nghìn Trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.


Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp đã tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài còn được nghe ai hát nữa?

Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2: không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già). Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.


Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng hòa nhập giữa tâm tình tôn giáo và chất nghệ sĩ.

Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.


Trên Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi PD.

Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance) nói chung của thời kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..

Vì vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đã nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc: "Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được trình bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn còn mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ý hướng điều hợp”(20)

(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid


Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng hòa bình, nói tới ước mơ thì người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà còn có thể xích lại gần nhau, như anh em?

Ảo tưởng hay ước mơ? Đã gọi là ước mơ thì ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những tình huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ thì lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy thì sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.

Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh thì PD khó có hy vọng thành công.

Loạn Phát (ex-croissance) trong trường hợp Phạm Duy

Làm xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đã hoàn tất, không con có gì để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lãnh vực sáng tác nhạc khác..

Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho dòng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như mì ăn liền mang nhãn hiệu: Cung khúc Võ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. Còn tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.

Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen …

Tôi không có ý nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng hòa bình, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.

Phạm Duy trong tình huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán “hàng giả” của ông..

Tháng 3-1966

Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng hòa bình. Đó là những gì có thể tìm thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ chêu quá.

Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..


Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi "tĩnh tọa” trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong “chiến dịch giải độc” những kẻ chủ hòa ngồi ở trên ...

Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.


Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đã vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, vì có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.

Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-, vừa chửi chính mình-kẻ nhận tiền-.

1970 một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm “GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai trò cố vấn.


Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai trò như thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.

Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.


Vỉa hè ca:

Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.

Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục .. Cái gì cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả ..

Tục ca:

Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xã hội ông đang sống. Đã có 10 bài Tâm Ca thì tại sao không có 10 bài tục ca. Đó là cái lối lý luận của Phạm Duy.

Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như: Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nhìn Lồn, tôi viết cho đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đã viết tục đuợc như thế mà còn ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ: lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tròn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nhìn phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.

Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào thì tôi không biết, nhưng phần lời ca thì thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm gì. Thật sự không biết để làm gì? Từ nhìn lồn sang đạo ca thì không biết phải nói thế nào.


(20) Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ thòm thèm thì nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc "sưu tập” Tiếu Lâm Annam . Còn Phạm Duy là “sáng tác

Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:

Tôi có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)

(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..

Tại sao ông lại viết tục ca để làm gì?

Theo ông, viết tục là để châm biếm xã hội hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.

Nổi giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ thì có liên quan gì đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin !! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nhìn L. đàn bà !!
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !


Đạo ca:

Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .

Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều gì đã khiến ông thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.

Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài: Anh tan trường về. Bài hát thật dề thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.

Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.

Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, hòa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lõi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.

Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lý gì đến Phạm Thiên Thư cả.

Nhưng không sao, kẻ đã bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư thì còn xá gì ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về mình đi.

Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái gì mỉa mai, lạc lõng nếu không phải là một cái gì ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca là một nối dài của tình ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi hòan cảnh đau khổ trước mắt." (22)

(22) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang 123- 124

Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những tình huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.

Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau thì khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.

Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.

Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngã, đại ngã, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không!

Sau 1975 tại Hải ngoại

Trước khi chấm dứt hành trình sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. Hình như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải Ngoại.

Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đã tắt.

Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ý đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đã được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàigòn, Độc Lập Tự Do. (Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân mình cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để thò Bác ra)…

Chống Cộng quá đi ấy chứ.

Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.

Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.

Cuối cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.

Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.

Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi ký của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lý do tại sao sáng tác cái này cái kia.

Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.

Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm gì. Tìm về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành trình về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm gì. Và nếu hiểu con người Phạm Duy thì thấy rõ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.

Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông thì đã vấp phải sai lầm là đã đánh giá quá cao về ông, về vai trò người nghệ sĩ, đòi hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ tình huống nào.

Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa thì bạn bè có đưa ra nhận xét như sau: "Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy". Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá còn gì. Đáng lý phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”(23)

(23) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128

Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.

Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.

Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa trước 1975.

Giết ông thì Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi ký, ông đã viết như sau:

Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh thì chua sót, nhìn vào người quốc gia thì thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những dòng chữ cuối cùng của đời mình. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ vãng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hãy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài: Thương nhớ Sài Gòn soạn năm 1981 tại Mỹ:

Saigon ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …


Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài Gòn mà hôn gót kẻ mà ông đã trốn chạy và chửi bới trrong nhiều năm!!

© Nguyễn Văn Lục