Saturday, June 14, 2014

THẾ NÀO LÀ CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ! CÁI LŨ BÁN NƯỚC... MÃI QUỐC CẦU VINH!

Những tài liệu mà Trung Quốc đã trích dẫn này là có thật

Ts Nguyễn Công Trục

Ngày 9/6, Vương Dân, Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư cho Chủ tịch HĐBA LHQ kèm theo cái gọi là "chứng cứ" Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc. "Chứng cứ" này bao gồm Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…xuất hiện vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. 


Những tài liệu mà Trung Quốc đã trích dẫn này là có thật. Tuy nhiên, nội dung của các tài liệu này cụ thể ra sao và giá trị pháp lý của chúng như thế nào? Đó là những câu hỏi  cần được phải làm sáng tỏ trên tinh thần thật sự khách quan, trung thực, cầu thị…:

Thứ nhất, xin nói về hình thức của các tư liệu này:

Tài liệu đầu tiên mà Trung Quốc thường xuyên nêu lên trong tất cả các lập luận về cái gọi là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng thừa nhận “chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa, Nam Sa”. Thực chất đây chỉ là bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho cố Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 có liên quan đến Tuyên bố quy định về chiều rộng lãnh hải 12 hải lý của CHND Trung Hoa; hoàn toàn không phải là “Công hàm” như phía Trung Quốc đã nhấn mạnh.

Các tài liệu khác như Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…thực chất đây là những tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu, học tập…

Ngoài ra, còn có một số nội dung khác đã được trích dẫn chủ yếu là những cuộc  trao đổi, phát biểu cá nhân  của một số cán bộ ngoại giao trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thứ 2, nói về nội dung của các tài liệu này:

Nội dung bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Căn cứ vào câu chữ của bức thư này thì rõ ràng không hề có  một câu chữ nào đề cập đến “Tây sa”, “Nam Sa”:… “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”
Nội dung các tư liệu khác đúng như những gì mà Trung Quốc đã dẫn.

Lá thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi người đồng cấp Chu Ân Lai năm 1958 không phải "Công hàm" như Trung Quốc suy diễn, và cũng không có câu chữ nào đề cập đến cái gọi là "Tây Sa", "Nam Sa".
Thứ 3, nói về hoàn cảnh ra đời của những tài liệu này:

Xin lưu ý rằng tất cả các tài liệu nêu trên  đều xuất hiện vào thời điểm trước những năm 70 của thế kỷ trước. Đó là thời điểm mà tình hình trong nước và  quốc tế về chính trị, ngoại giao, pháp lý… mang những nét đặc thù liên quan rất lớn đến giá trị pháp lý của các tư liệu nói trên, cụ thể là:

Đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chủ thể bình đẳng trong quan hệ quốc tế, có trách nhiệm quản lý lãnh thổ ở 2 niềm Nam, Bắc, được phân chia bởi vỹ tuyến 17 theo quy định của Hiệp định Geneve 1954.

Sau một thời gian dài, cả dân tộc Việt Nam, bất kể già trẻ trai gái, không phân biệt quan điểm chính trị, thành phần giai cấp…đều dốc lòng, dốc sức cho cuộc kháng chiến chông ngoại xâm, giành quyền độc lập, tự do, hạnh phúc…bằng nhiều phương thức có lợi nhất cho công cuộc kháng chiến cứu quốc, chống giặc ngoại xâm…Trong hoàn cảnh đó, sau khi hòa bình được lập lại, biết bao khó khăn bộn bề mà cả chính thể  2 miền Nam Bắc đều phải tập trung ưu tiên giải quyết… Cũng cần phải nói một cách thẳng thắn rằng những nội dung liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền  2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cả trên thực địa và trên mặt trận đấu tranh ngoại giao pháp lý, cũng còn nhiều bất cập, thậm chí còn có những sơ suất, sai sót…Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng điều này không phải xuất phát từ ý thức, mà chủ yếu là từ thực lực, nhận thức, hiểu biết...do thiếu thông tin hoặc thông tin không được cập nhật và tập trung.

Ngoài ra, có vấn đề không thể không đề cập đến khi nghiên cứu, đánh giá những nội dung nói trên; đó là những chủ trương, chính sách của các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc trong khu vực và quốc tế, trước những thay đổi về địa-chính trị, địa- chiến lược, địa-kinh tế…trong khu vực có liên quan đến vị trí, vai trò của 2 quần đảo này giữa Biển Đông. Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…

Xuất phát từ bối cảnh chính trị đó, sự xuất hiện các tài liệu nói trên, thậm chí có cả những hành động không làm tròn được sứ mệnh bảo vệ, quản lý trên thực tế quần đảo Hoàng Sa và một số đảo trong quần đảo Trường Sa cũng là điều có thể lý giải được…

Thứ 4, những tài liệu Trung Quốc dẫn ra hoàn toàn không có giá trị pháp lý

Dưới ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ và theo cách nhìn nhận đánh giá của giới luật gia, luật sư, chúng ta hãy xem xét giá trị pháp lý của các tư liệu này: Có phải đó là bằng chứng có giá trị  pháp lý chứng minh rằng Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, hay nói một cách khác, các tài liệu này có phải là những bằng chứng chứng minh rằng Nhà nược Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền của mình đối Hoàng Sa, Trường Sa hay không? Câu trả lời là không. Vì sao?

Phải khẳng định rằng, cho dù nội dung của các tư liệu nói trên có nói đến “Tây Sa và Nam Sa của Trung Quốc” thì chúng cũng chỉ là những tư liệu vô giá trị pháp lý trước ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, bởi vì:

Chúng chỉ là những tư liệu, những phát biểu cá nhân, không phải là những văn bản quy phạm pháp luật được phê chuẩn bởi Cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc bởi những tổ chức, cá nhân được ủy quyền đại diện hợp pháp cho Cơ quan quyền lực đó.

Vào thời điểm đó, đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý lãnh thổ đối với 2 quần đảo này theo quy định của Hiệp định Geneve là chính quyền miền Nam Việt Nam, lúc đầu là Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, kế đến là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho dân tộc Việt Nam tiếp quản chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ Cộng hòa Pháp chờ ngày tổng tuyển cử hòa bình theo Hiệp định Geneva 1954.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có trách nhiệm nghĩa vụ pháp lý trong việc bảo vệ quản lý vùng lãnh thổ ở phía Nam vỹ tuyến 17. Đó là một thực tế pháp lý rõ ràng, không thể chối cãi được, cho dù về mặt chính trị, tư tưởng, quan hệ ngoại giao, có thể có lúc, có nơi, chính thể Việt Nam Cộng hòa đã bị lên án, phủ nhận…Nhưng đó lại là chuyện khác, chuyện chính trị, ý thức hệ, lập trường giai cấp. Mà chuyện chính trị, tư tưởng, ý thức hệ không có giá trị phủ nhận, chối bỏ những quy định pháp lý trong quan hệ quốc tế.

Trong thực tế, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.

Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

Và để chứng minh vai trò của Chính quyền miền Nam với tư cách là đại diện hợp pháp cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý chủ quyền, lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa  như thế nào, chúng tôi xin trích dẫn các sự kiện quan trọng và có ý nghĩa say đây:

Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chông lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Theo Hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp dựng nên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông , trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới (OMM: Organisation Mondiale de   Meteorologie) đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số 48419.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký với cựu hoàng Bảo Đại Hiệp định Hạ Long, trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại, tháng 4, Hoàng thân Bửu Lộc, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.

Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.

ừ 5 tháng 9 đến 8 tháng 9 năm 1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng, ngày 5 tháng 9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận đã bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung : Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam .
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt nam: “et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les  germes de discorde, nous affirmons nó droits sur les iles de Spratley et de Paracel qui de tout temps ont fait partie du Vietnam”. Không một đại biểu nào trong Hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước đã ghi rõ: “Nhật bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly”(khoản f).

Tháng 4 năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Công hòa, đã ra tiếp quản  nhóm  phía Tây quàn đảo Hoàng Sa của Việt nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.

Ngày 22 tháng 8 năm 1956, Tàu HQ04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ quyền, dựng cờ, bảo vê quần đảo trước hành động  xâm chiếm trái phép, vi phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Philippines.

Ngày 20 tháng 10 năm 1956, bằng  Sắc lệnh 143/VN Việt Nam Cộng hòa đã đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.

Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã có quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa; ngày 27 tháng 6 năm 1961, bổ nhiệm ông Hoàng Yêm giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa. 
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, VNCH sáp nhập  quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, VNCH ban hành Nghị định 809 –NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ chức phái viên hành chính xã Định Hải (Hoàng Sa), quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.  

Ngày 21 tháng 10 năm 1969, bằng Nghị định số 709-BNV-HCĐP-26 của Thủ tướng VNCH sáp nhập xã Định Hải ( quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.

Trước  những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc và Philippines tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối: Ngày 24 tháng 5 và ngày 8 tháng 6 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
             
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định 420-BNV-HCĐP/26 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

Từ 17 tháng 01 đến 20 tháng 01 năm 1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh chiêm nhóm phía Tây, quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh dũng hy sinh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không cản phá được hành động xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên trên mặt trận ngoai giao Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liện Hợp Quốc và công đồng quốc tế: Ngày 19 tháng 01 năm 1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra Tuyên cáo kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm lược thô bạo của Trung Quốc.

Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiên này: 

Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.

Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.

Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.

Ngày 01 tháng 02 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tăng cường lực lượng đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa trong tình hình Trung Quốc tăng cường sức mạnh tiến hành xâm chiếm lãnh thổ  mà theo nhận định ủa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu:  “Trung cộng sẽ đánh Trường Sa và xâm chiếm bằng vũ lực giống như Hoàng Sa, có sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ”.

Ngày 02 tháng 7 năm 1974, tại Hội nghị luật biển lần thứ 3 của LHQ tại Caracas, đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam , chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là không tranh chấp và không thể chuyển nhượng.

Ngày 14 tháng 02 năm 1975, VNCH công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Ngày 05 tháng 04 năm 1975, Lực lượng Hải quân quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã triển khai kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa 
.
Từ ngày 13 đến 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa niềm Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa .

Ngày 05 tháng 06 năm 1975, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 02 tháng 07 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thông nhất được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn có nghĩa vụ quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Từ những sự kiện nói trên, chúng ta khẳng định rằng tất cả những tư liệu mà phía Trung Quốc đã viện dẫn là cố ý bóp méo sự thật để biện minh cho những hành vi sử dụng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 trở về trước, rồi tiếp đến là xâm lược một số bãi cạn ở phỉa Tây Bắc quần đảo Trường Sa năm 1988, và hiện nay đang triển khai một cuộc xâm lăng kiểu mới, một cuộc “xâm lược mềm”…với việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong hơn một tháng nay, là uổng công vô ích, không thể thuyết phục được ai.

Điều đó càng làm cho dư luận quốc tế, kể cả đa số người Trung Quốc, hiểu rõ hơn bản chất xâm lược, bất chấp luật pháp quốc tế, đe họa đến hòa bình, an ninh khu vực và thế giới, đe dọa an ninh an toàn hàng hải, hàng không quốc tế…của một số thế lực theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang tồn tại ở Trung Quốc.

 ......................
Tên bài của Quê choa, tên gốc Tiến sĩ Trần Công Trục vạch mặt các "bằng chứng" của Trung Quốc

Monday, June 9, 2014

"Cách mạng Nhung" VN đang đến?





Võ Thị Hảo



Hãy từ bỏ việc đồng nhất Tổ quốc và quyền lợi của nhà cẩm quyền. Đó là một nhầm lẫn tai hại do tuyên truyền khiến người VN khốn khổ từ bao đời nay.


Thời đại đã khác. Cách thức tiến hành chiến tranh vệ quốc hoàn toàn khác. Có nhiều biện pháp không phải mất súng đạn và máu xương. Sử dụng những thế cờ chính trị trong một tổng thể liên minh, bằng CM Nhung và chiến tranh ngoại giao là biện pháp duy nhất có thể cứu nhà cứu nước trong thời điểm này.


§ VN bên bờ hủy diệt


Có thể nói rằng nhà cầm quyền TQ đã thực hiện một kịch bản và chọn thời cơ hoàn hảo cho việc thôn tính VN. Với tiền lệ Nga ngon xơi một phần lãnh thổ của Ucraina mà Mỹ và châu Âu cũng chỉ có thể phản ứng yếu ớt trên sự đã rồi, TQ càng thêm táo tợn.

Vòng vây xâm lược của Trung quốc thêm ráo riết, đặt ra những tình huống khốc liệt. Nhà cầm quyền VN ngày càng bối rối và có quá ít điều để lựa chọn. Trong khi đó, TQ tấn công ngày càng mạnh mẽ trên mọi phương diện, đặc biệt là truyền thông. Thông cáo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8/6/2014 tố cáo : “… từ 5 giờ chiều ngày 7/6, lúc cao điểm có tới 63 tàu Việt Nam trong khu vực. Các tàu này tìm cách phá vỡ hàng rào của Trung Quốc và đâm vào tàu chính phủ của Trung Quốc tổng cộng 1.416 lần”. Bằng những phương tiện theo dõi hiện đại, các nhà quan sát quốc tế có thể phân định được đúng sai. Nhưng VN đang là nạn nhân thì phản ứng một cách hết sức yếu ớt, thậm chí nhiều người có trách nhiệm vẫn bao che cho TQ, vẫn chưa chịu kiện TQ ra tòa án quốc tế thì việc mất nước theo những bước leo thang táo tợn của TQ là điều đương nhiên.

Không ai dám đảm bảo rằng TQ, qua một số người trong nhà cầm quyền VN đang được dư luận cho rằng đớn hèn và bán nước, sẽ không sử dụng thủ đoạn tương tự Nga đã làm với Crưm, sẽ mượn cớ “trưng cầu dân ý” và dùng vũ lực để chiếm đoạt VN trong một ngày không xa.


Phải chăng nhiều nhà cầm quyền VN đang trên lộ trình đã cài đặt sẵn là ôm đống vàng cướp bóc được của dân để ngủ ngon trên đống giáp trụ đã cởi bỏ để quy hàng TQ. VN sẽ biến mất trên bản đồ thế giới?!


Hoặc toàn dân VN sẽ mù quáng tuân theo tiếng gọi nô lệ cho chủ nghĩa dân tộc và nhà cầm quyền thực dân, quên nhu cầu làm người của mình, ưỡn ngực ra trận “còn cái lai quần cũng đánh”, sẵn sàng tan xương nát thịt trong biển máu theo đuổi một cuộc chiến hoàn toàn không cân sức với TQ?


Còn cách nào khác không? Một cánh chim nhỏ cô đơn giữa tầng không còn có thể làm gì?


§ Đã đến, khoảnh khắc CM Nhung VN


Ngày 24/5/2014- Want China Times cho biết chuyến bay HU-7863, cất cánh từ tỉnh Sơn Tây, gặp phải sự cố khi vừa đến sân bay quá cảnh Lạc Cương Hợp Phì ở tỉnh An Huy. Nguyên nhân sự cố là do máy bay đâm phải một con chim. Cú va chạm khiến mũi phi cơ bị móp, trầy xước nặng. Máy bay phải hạ cánh khẩn cấp.

Lịch sử hàng không thế giới đã ghi nhận nhiều trường hợp một cánh chim có thể làm tan xác một chiếc máy bay khổng lồ có sức mạnh và vận tốc triệu lần. Nguyên nhân chủ yếu do lực cộng hưởng và xung lực vô cùng lớn tại khoảnh khắc va chạm.


Quy luật này hoàn toàn có thể vận dụng trong nhiều lĩnh vực của xã hội, đặc biệt là những thời điểm hội đủ điều kiện cộng hưởng các xung lực cho một cuộc cách mạng.
Cách mạng Nhung VN cũng vậy thôi.


Đó sẽ là một cuộc cách mạng êm ái, ít gây thiệt hại nhất, các bên đều gặt hái lợi ích khả thể, và quyền lợi của của dân VN đã bị thể chế độc tài cướp đoạt sẽ được trả lại bằng một thể chế minh bạch, đa nguyên.

Khoảnh khắc đó đang đến với VN, và đã chín muồi…


§ * Xung lực tạo Cách mạng Nhung VN


Vấn đề là xung lực nào và ai có khả năng nắm bắt nó để biến CM Nhung VN thành hiện thực?


Xung lực quan trọng nhất là từ bên trong thể chế chính trị . Nhân tài vật lực VN đã cạn kiệt. Các số liệu từ mọi phía, nếu không là dối trá che đậy, đều cho thấy nền kinh tế và chính trị VN đều có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nếu không thay đổi.


Mối nguy Trung quốc xâm lược, mối nguy nước mất nhà tan đã vô tình tập hợp được một lực lượng đông đảo mọi sắc cờ người VN dù ở trong hay ngoài nước đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ để bảo vệ Tổ quốc.


Rất nhiều người dân VN đã quá chán ngán và bất bình trước nhà cầm quyền đương nhiệm. Ngay cả phần lớn các cán bộ công chức, đảng viên bảo thủ cũng khao khát có được một gương mặt lãnh đạo xứng tầm, đáng tin cậy để bảo vệ đất nước và giữ quyền lợi cho chính họ.


Tầng lớp cấp tiến, bao gồm nhiều nhân sĩ trí thức, các tổ chức xã hội dân sự và những công dân thuộc các tầng lớp sớm tỉnh ngộ trong và ngoài nước, đang có những hoạt động mạnh mẽ cả về hành động và truyền thông, được nhiều lực lượng trọng công lý và nhân quyền trên thế giới ủng hộ. Số lượng này đang nhân bản theo cấp số nhân, đòi hỏi đưa đến một cuộc cách mạng xã hội và thể chế chính trị.


Trong hoàn cảnh đó, sự kiện giàn khoan Trung quốc, vô tình lại như một mồi lửa rất đúng lúc làm cháy đống củi, là một cơ hội để người VN thoát ra khỏi ảo tưởng, thoát gọng kìm Trung quốc.


Lựa chọn sống còn đó chỉ có thể là: thực hiện cấp bách một cuộc cải cách thể chế để VN đủ điều kiện đón nhận cánh tay mạnh mẽ, đáng tin cậy của nước Mỹ và các nước đồng minh. Muốn Mỹ thực sự bảo vệ như một đồng minh, thì phải đồng thời làm CM Nhung VN để cải cách thể chế.


May mắn ngoài sức tưởng tượng cho VN, trên thực tế, Mỹ đã chìa tay ra, công khai và lẫm liệt, dù với một nhà cầm quyền từng bộc lộ nhiều tráo trở như VN.

Tổng thống Mỹ Barac Obama, ngày 28/5/2014, trong bài nói chuyện về chính sách đối ngoại của Mỹ tại học viện quân sự West Point tuyên bố : “Một hành động gây hấn dù là ở Nam Ukraine, Biển Đông hay bất cứ nơi nào khác trên thế giới đều có ảnh hưởng đến đồng minh của Hoa Kỳ và có thể kéo theo hành động quân sự của nước Mỹ”.(theo RFA -2014-05-28 ).

Ngày 31/5/2014, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ - Ông Chuck Hagel tại Đối thoại Shangri-La tại Singapore, đã mạnh mẽ nói "Chúng tôi kiên quyết chống lại bất cứ hành động khiêu khích, gây hấn hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để khẳng định chủ quyền từ bất cứ quốc gia nào".

Ý chí của nhà cầm quyền Mỹ cũng được ủng hộ bởi các nhà lập pháp tại Thượng viện Mỹ.

Nhiều giải pháp của các chuyên gia có uy tín trong và ngoài nước VN đã được đưa ra. Lựa chọn cải cách thể chế, bắt tay với Mỹ và đồng minh đang là xu thế ưu việt nhất.

“Không liên minh quân sự với Hoa Kỳ thì chắc chắn mất Biển Đông. Liên minh quân sự với Hoa Kỳ thì vừa giữ được Biển Đông vừa giữ được môi trường hòa bình. Trong tình thế hiện nay mà chỉ thề một lòng vì hòa bình tức là khoanh tay nộp mạng cho bọn Đại Hán. …cùng ta giữ Biển Đông trong trường hợp cụ thể này chỉ có thể tìm kiếm chủ yếu ở Hoa Kỳ…Muốn liên minh được với Hoa Kỳ chỉ cần Đảng bớt độc quyền, độc đoán, độc tài vì Đảng mà hãy vì nhân dân, vì Tổ quốc mở rộng tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền.”(TS Nguyễn Thanh Giang trả lời PV RFA)

Giáo sư Jonathan London – một trong những nhà nghiên cứu về VN rất có uy tín trên thế giới đã phân tích rõ: “Có những hạn chế nhất quán về quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam liên quan đến tình hình nhân quyền, và mỗi khi đề cập đến việc này thì phải đối mặt với một rào cản. Vì vậy, có rất nhiều điều Việt Nam cần phải làm ngay lập tức nếu thực sự muốn có bạn bè và đồng minh… Ðó là lý do tại sao nhiều người cho rằng có nhiều triển vọng cho Việt Nam, vì nếu Việt Nam bước trên một lộ trình khác, một lộ trình thực sự độc lập mà không phải là một đàn em của Trung Quốc, và giải quyết những vấn đề thể chế, bao gồm việc không giới hạn nhân quyền từ trước đến giờ cản trở nhiều mối quan hệ với các nước khác…”.

“…cần tìm tới một đồng minh xa xôi hơn, như Hoa Kỳ chẳng hạn, quốc gia có thể sẽ chấp nhận tham gia vào mối quan hệ địa chính trị, và họ cũng là quốc gia duy nhất có thể cân bằng lại với sức mạnh của Trung quốc, còn nếu riêng từng nước đơn lẻ trong khu vực thì không thể đấu lại được,” “… Nhưng lúc đó Việt Nam sẽ ở vào vị trí phải thương lượng với người Mỹ, mà một khía cạnh có lẽ chắc chắn được đề cập tới là nhân quyền và sự minh bạch trong chính trị Việt Nam…Với cách làm này thì điều sống còn là Đảng Cộng sản Việt Nam phải tách rời phương Đông thêm một chút, và chấp nhận cởi mở nền chính trị vốn đang giữ kẽ với Hoa Kỳ…Như thế có nghĩa là Hoa Kỳ đã bày tỏ ý kiến rằng, chúng tôi chỉ trao vũ khí cho các anh để phòng ngự khi các anh chấp nhận tiến trình dân chủ.( - Ông Gédéon, nhà nghiên cứu người Pháp - (theo BBC- 25/5/2014).

Rõ ràng, với VN hiện nay, Nhật bản đã là một tiền lệ thành công đáng học hỏi. Gần một thế kỷ nay, Mỹ không bất tín với Nhật. Nước Nhật vận hành trên đường ray của Mỹ ngày càng yên bình, hùng cường và được tôn trọng trên toàn thế giới. Gần đây là những thí dụ về Myanma, Philipin và Ucraina…


* Ai lãnh đạo Cách mạng Nhung?


Thời cơ Cách mạng Nhung VN đã đến, thậm chí CM Nhung đang diễn ra từng giờ phút?


Cách mạng Nhung VN chỉ có thể thành công khi có được sự ủng hộ của đông đảo người người dân VN yêu hòa bình, chuộng sự thật và nhân quyền trên cơ sở nội lực và sự ủng hộ giúp đỡ của nhiều cường quốc văn minh trên thế giới


Nhưng ai lãnh đạo CM Nhung VN? Ai đủ năng lực và tầm cỡ?


Thực tế cho thấy CM có vô số con đường xẩy ra ở một quốc gia, thường rất bất ngờ, thậm chí những chuyên gia chính trị không hình dung nổi.

Lãnh đạo một cuộc CM, nhiều khi không hẳn là một cá nhân đủ uy tín, trong sạch, đại diện cho một lực lượng ưu tú của xã hội đương thời. CM nhiều khi khơi nguồn và dẫn dắt từ một vài nhân vật nào đó đã nhận thức ra sai lầm của mình và bị dồn vào tình thế “Thay đổi hay là chết”.


Đó là câu chuyện bí ẩn muôn đời giữa Thời và Thế. Ai đủ khát vọng, đủ tinh nhạy, dám thay đổi và đủ lực nắm được khoảnh khắc ngàn năm có một của CM Nhung, người đó sẽ thắng.
Ở VN hiện nay, ai có thể?


Cuộc biểu tình được chính quyền bật đèn xanh rộng khắp tại nhiều tỉnh thành VN ngày 11/5/2014 vừa qua phải chăng là một phép thử, một cuộc tập dượt, chuẩn bị cho những toan tính của lực lượng nào đó ở tầm vĩ mô?


Phân tích tình hình, GS Jonathan London nhận định: …” Tôi không biết ông Nguyễn Tấn Dũng đóng vai trò nào trong tương lai chính trị của Việt Nam, nhưng tại thời điểm này ông rõ ràng đã trở thành một lãnh đạo nổi bật nhất của đất nước, trong khi đó một số các nhà lãnh đạo khác phần lớn im lặng về các cuộc xung đột hiện nay với Trung Quốc. Việt Nam chỉ có thể có lợi trong việc lợi dụng tình huống này như một cơ hội để đạt được những cải cách mang tính đột phá mà mọi người dân Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới đã chờ đợi và khuyến khích. Cái cần phải có là can đảm chính trị”.


Không ít người tán đồng nhận định này.

Nguyễn Tấn Dũng – mặc dù lộ trình lãnh đạo của ông trong vai trò Thủ tướng bên một Đảng độc tài mà ông vừa lũng đoạn lại vừa bị kiềm chế, đã để lại rất nhiều hậu quả khiến cho tham nhũng mặc sức tung hoành; TQ tha hồ cướp bóc cả về chính trị và kinh tế, ngoại giao; nền kinh tế VN khánh kiệt, nhân quyền bị xâm hại nghiêm trọng, và đất nước bên bờ sụp đổ… Ông đã từng làm cho người dân VN phẫn nộ và chán ngán.

Nhưng xem ra, trong tình thế này, ông đã có một lựa chọn hợp lý. Ông là vị lãnh đạo thức thời khi nhận ra rằng phải thay đổi thì mới giữ được quyền lợi của mình và giữ được đất nước. Ông kêu gọi cải cách thể chế và thẳng thắn phản đối TQ xâm chiếm lãnh thổ VN. Khuynh hướng mà ông tỏ rõ là thoát TQ và bắt tay với Mỹ.

Hành động của vị Thủ tướng này đã tạo sự nổi bật trên chính trường. Dù chưa ai có thể dám chắc chắn về sự thực tâm của ông đến đâu. Nhưng chí ít, hành động này đã tạo sự đối lập với những vị lãnh đạo khác đang lờ đi hoặc bày tỏ yếu ớt, thậm chí còn ve vuốt TQ, khiến cho người VN vô cùng thất vọng vì mỗi giây phút qua lại càng gần bờ vực mất nước.

Nguyễn Tấn Dũng đã đưa tay cầu cứu về phía Mỹ và các cường quốc thuộc thế giới văn minh . Nếu muốn Mỹ thực sự giúp VN, như Nhật bản trước đây đã được Mỹ cứu giúp khi đại bại sau thế chiến II, dù muốn hay không, vị Thủ tướng này cũng phải tận dụng mọi lực lượng, ngay trong tầng lớp lãnh đạo VN đương nhiệm và người dân VN, hợp lực làm một cuộc đại loại như CM Nhung Việt Nam để cải cách thể chế, vượt rào cản ngăn VN với sự cứu giúp của thế giới văn minh.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện đang được nhiều nhà quan sát hy vọng là nhân vật có thể tận dụng uy quyền cũng như những thủ pháp tập hợp lực lượng từ nhiều phía. Nếu thế, phải chấp nhận thương thảo, điều hòa các quyền lợi để xác lập một thể chế đa nguyên, dù chưa hẳn ông đã thực sự muốn. Nhưng chỉ có thể bằng cách này mới giúp ông và nhóm lợi ích của ông cũng như nhà cầm quyền VN thoát khỏi tình thế khủng hoảng chính trị và mất tất cả. Đó cũng là cách vừa tránh đổ máu cho dân VN mà vẫn bảo vệ được đất nước.

Đó là lối thoát ưu việt nhất. Nếu ông làm được, người dân VN sẽ tha thứ cho ông về những hậu quả trước đây trong vai trò là một Thủ tướng và biết ơn ông vì mở ra một trang mới cho VN.
Đây là thời điểm mà người VN cần sáng suốt lựa chọn.


Hãy từ bỏ việc đồng nhất Tổ quốc và quyền lợi của nhà cẩm quyền. Đó là một nhầm lẫn tai hại do tuyên truyền khiến người VN khốn khổ từ bao đời nay.


Thời đại đã khác. Cách thức tiến hành chiến tranh vệ quốc hoàn toàn khác. Có nhiều biện pháp không phải mất súng đạn và máu xương. Sử dụng những thế cờ chính trị trong một tổng thể liên minh, bằng CM Nhung và chiến tranh ngoại giao là biện pháp duy nhất có thể cứu nhà cứu nước trong thời điểm này.


Đây là tình thế muôn năm có một. Người VN cần biến lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc cực đoan thành lòng yêu hòa bình và yêu quyền con người của chính mình và đồng loại bằng cách đồng lòng chung tay thiết lập một thể chế chính trị có đủ điều kiện tối thiểu để bảo vệ điều đó.

Ngày 7-6 vừa qua, trong Lễ tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống mới của Ukraine, ông Petro Poroshenko đã nói những điều cốt thiết cùng đồng bào của ông – những người vừa đứng lên làm một cuộc cách mạng lật đổ nhà cầm quyền thực dân và tham nhũng, bán nước để giành quyền đi về phía một thế giới văn minh: “...Nhưng tự do không thể đạt được chỉ một lần và mãi mãi. Chúng ta luôn luôn phải đấu tranh vì tự do…Không ai có thể biến chúng ta thành nô lệ tội phạm và quan liêu, thành đầy tớ của chính quyền thực dân…”


Người dân VN cũng vậy. Mỗi công dân phải dũng cảm đứng lên đòi quyền con người, dũng cảm bộc lộ thái độ đối với những kẻ bán nước, không khoan nhượng với việc chậm trễ cải cách thể chế và không bao giờ thỏa mãn với những thành quả tạm thời đã đạt được.

Như thế, mỗi người sẽ góp phần vào thúc đẩy sự thành công của CM Nhung VN. Thiết yếu nữa là hãy luôn cảnh giác với khuynh hướng tự nhiên đi về phía lạm dụng và đồi bại của tầng lớp cầm quyền dù cũ hay mới, dù ở thể chế nào nếu không có một thiết chế xã hội hữu hiệu để ngăn chặn.

Người VN cần rất nhiều dũng lược và kiên trì, đồng lòng, hết thế hệ này sang thế hệ khác để canh giữ nền hòa bình, tự do và công lý ngay cả sau khi CM Nhung thành công. /.

VTH
Facebook Võ Thị Hảo

copied from huynhngocchenh blog