Monday, November 24, 2014

BÁN ĐỒ... SỐNG QUA NGÀY!

Dự án Hải Vân: 

Tỉnh Thừa Thiên Huế hay khu tự trị?

Nguyễn Thái Nguyên/ Quê Choa

Cách nay vừa đúng một năm, ngày 24/10/2013, Ban quản lý khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án “Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế Wold Shine” của Công ty Thế Diệu của Trung Quốc do ông Lu Wang Sheng, quốc tịch TQ làm Tổng giám đốc, mặc dù trên danh nghĩa, đây là một công ty thành viên của một tập đoàn Hong Kong. 

Trong suốt một năm qua kể từ khi Thừa thiên Huế cấp phép cho công ty Thế Diệu, đã có rất nhiều ý kiến phản đối gửi đến lãnh đạo đảng, nhà nước cũng như các ngành chức năng Trung ương. Gần đây thì cả báo chí của nhà nước và báo mạng đã có nhiều bài viết tỏ thái độ phản đối rất gay gắt việc cấp phép cho TQ đầu tư dự án này. 

Chuyện gì đang xẩy ra nơi “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”? (Chữ đề của vua Lê Thánh Tông trên Hải vân quan). 

1/ Rất nhiều người biết, có lẽ trừ một số lãnh đạo tỉnh Thừa thiên-Huế, đây là đèo đường bộ dài nhất (21 km) và cao nhất (496m so mực nước biển) của nước ta, án ngữ trên con đường quốc lộ 1A, cũng có nghĩa là điểm yết hầu có thể chia đôi đất nước một cách dễ dàng nếu nó nằm trong tay kẻ xâm lược một khi có giặc phương Bắc. Từ khu vực này có thể quan sát được một cách rõ ràng toàn cảnh TP Đà Nẵng,  cảng Tiên Sa, Bán đảo Sơn Trà và Cù Lao Chàm. Bởi thế mà vị trí địa lý này có ý nghĩa hết sức nhạy cảm về an ninh quốc phòng ngay cả  dưới thời của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước đây.

 Ngày nay câu chuyện còn mang một tầm quan trọng lớn hơn nữa khi Obama đưa ra chủ thuyết “xoay trục về châu Á – Thái Bình Dương” thì Mỹ đã và đang xây dựng phòng tuyến quân sự nối liền từ Nhật bản về Đài Loan, Philippines đến Malaysia. Với 3 điểm đầu tư “dân sự” theo dáng dấp một căn cứ quân sự của Trung Quốc là Sân golf Trà Cổ (Quảng Ninh), Khu Kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) và Khu Nghỉ dưỡng du lịch Hải Vân thì TQ hoàn toàn có thể thoải mái theo dỗi mọi hoạt động của lực lượng quân sự của Mỹ và đồng minh ở khu vực biển Đông  (Đương nhiên họ không loại trừ Việt Nam). 

Với ý nghĩa ấy thì TQ sẵn sàng bỏ ra nhiều trăm triệu đôla và sẵn sàng “đả thông” bất cứ khâu tắc nghẽn nào để được làm chủ những vị trí ấy. Ban quản lý Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô đánh giá công ty Thế Diệu có đủ khả năng tài chính cũng không sai vì trong mấy nghìn tỷ đôla dự trử của TQ, khó ai biết được có mấy trăm tỷ đã được chuyển vào Ngân hàng đầu tư quốc tế, một ngân hàng đặc biệt do Trung ương Đảng CSTQ quản lý để phục vụ cho các mục tiêu bành trướng ra thế giới dưới vỏ bọc các dự án kinh tế mà tôi đã giới thiệu sơ bộ về hoạt động của nó trong bài viết “Giấc mộng Trung Hoa” trước đây. Không lẽ các vị lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên-Huế không hề hay biết gì về những ý đồ và những hành động bành trướng của Trung Quốc? 

Với một vị trí như trên đèo Hải Vân mà bảo rằng bỏ ra ra 250 triệu đôla để đầu tư cho nghỉ dưỡng và du lịch thì bất cứ ai có chút hiểu biết về khu vực này đều không thể tin được, thế mà các ban ngành chức năng của tỉnh lại tin! Công ty Thế Diệu nói họ xây dựng một quần thể các biệt thự và có cả “Trung tâm hội nghị quốc tế” với hội trường mênh mông đủ chỗ cho 2000 đại biểu là những chuyện hoang đường trong giới kinh doanh. Không lẽ trong tương lai, họ tự tổ chức các hội nghị quốc tế ở đây?

 Hãy nhìn xuống dưới chân đèo, cách vị trí Cửa Khẻm không xa đã có một khu nghỉ dưỡng cao cấp gồm một tổ hợp 5 sao Laguna Lăng Cô của Tập đoàn Banyan Tree (Singapore). Tại dự án này có 255 biệt thự, 4 phòng họp và một hội trường dành cho hội nghị với 200 đại biểu. Cũng tại khu kinh tế này có 4 khách sạn khá lớn và hiện đại. Vậy thì hội nghị gì và những khách quốc tế nào đến đây hội nghị mà xây hội trường nhiều thế, to thế? Một ý đồ phi kinh tế, đầu tư bằng mọi giá, xoay xở bằng mọi cách để có được một thành phố tàu (China Town) trước mắt là trong thời hạn 50 năm trên đèo Hải Vân là rõ như ban ngày rồi, nhất là dự án do người “láng giềng tốt” đầu tư 100% vốn.

 Bây giờ mời các bạn đến Vũng Áng quê tôi mà xem, đừng bao giờ nghĩ đến chuyện vào cái thành phố tàu “tường cao hào sâu” theo đúng nghĩa đen của từ này. Ngay lãnh đạo tỉnh muốn vào cũng phải xin phép trước kia mà! Một Vũng Áng đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực và chưa biết đến bao giờ mới gỡ ra được thì nay lại thêm Hải Vân. Đây cũng là những cửa ngõ quan trọng để ra biển của “Hành lang kinh tế Đông – Tây” và Trung Quốc đã “giúp” Lào làm đường cao tốc từ biên giới Bắc Lào xuống đến Nam Lào, ngang với khu vực Quảng trị đến Đà Nẵng mà từ đây sang Lào thì rất gần, càng thấy vị trí Hải Vân quan trọng như thế nào trong thời đại ngày nay.

Xin nhắc lại một chút, vào năm 2012, khi nhà thầu Trung Quốc Ralls Corp trúng thầu lắp đặt Tuốc-bin điện gió gần căn cứ Hải quân Mỹ ở Boardman thuộc Tiểu bang Oregen mà Tổng thống Obama đã phải ra lệnh ngăn chặn không cho các nhà thầu này làm vì lý do “giao dịch có thể làm suy yếu an ninh quốc gia Mỹ” (Báo CAND ngày 26/10/2012). Đây chỉ là các “công nhân” đến lắp máy rồi đi chứ không lập làng tại đó mà người Mỹ còn lo xa đến thế. Chúng ta thường tự hào đánh thắng hai đế quốc to, có đội ngũ cán bộ đảng viên đã tôi rèn qua hai cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ, vậy mà chẳng lẽ bây giờ không còn nhớ tí gì những vấn đề liện quan đến chủ quyền và an ninh quốc gia? 


2/ Dù biết đã có nhiều phản ứng từ các vị lão thành, các tướng lĩnh quân đội mà có nhiều vị đã từng vào sinh ra tử ngay vùng đất này thời chiến tranh chống Mỹ, nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn khẳng định nhiều lần, ở nhiều nơi rằng tỉnh đã làm đúng theo quy hoạch được Thủ tướng duyệt, tỉnh đã làm đúng quy trình v.v.. 

Về “quy trình” thì không cần phải bàn vì ai cũng biết đất nước ta trong mấy năm gần đây đã có quá nhiều tai họa không nhỏ được “làm đúng quy trình” cả. Tôi xin nói thêm đôi điều về việc lãnh đạo tỉnh và các cơ quan chức năng của tỉnh Thừa Thiên Huế đã “làm đúng” theo các văn bản nào của Thủ tướng Chính phủ?

Là người đã từng có cơ hội theo dõi quá trình khảo sát và xây dựng quy hoạch “Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô” từ lúc khởi thủy dưới thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, qua thời Thủ tướng Phan Văn Khải và kéo dài sang đến thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nên tôi cũng hiểu được ít nhiều câu chuyện về Chân Mây-Lăng Cô nó phức tạp đến thế nào. Nói như thế cũng để thấy rằng đây là một dự án có lẽ kéo dài nhất trong các dự án quy hoạch một khu kinh tế của Việt Nam, nhưng không phải vì những khó khăn về kỹ thuật mà vì những lình xình về ranh giới cho đến nay vẫn không giải quyết được. Ngày 10/10/2007 thì Thủ tướng Chính phủ mới có Quyết định số 1363/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế, do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, thay mặt Thủ tướng ký. (Theo sự hiểu biết của tôi thì đối với những dự án lớn, có tầm quan trọng như bản “Quy hoạch khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô” thường là Thủ tướng trực tiếp ký chứ không ủy quyền cho các phó. Có thể bây giờ có sự đổi mới gì chăng).

Dù có Quyết định phê duyệt của Thủ tướng, nhưng đây là bản quy hoạch về các “nhiệm vụ chung” chứ không phải phê duyệt một dự án nào trong khu kinh tế này. Khi giải thích những vấn đề liên quan đến dự án “Khu kinh tế quốc tế nghỉ dưỡng và du lịch Hải Vân”, nếu có các vị lãnh đạo Thừa Thiên Huế nào đó nói rằng “đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt” là hoàn toàn sai  và rất thiếu trách nhiệm. Sự lập lờ như thế sẽ gây hiểu lầm rất không tốt trước công luận. Tôi còn ngờ rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ biết rất sơ qua, thậm chí không biết gì về dự án này. Vai trò của cấp phó và cách làm việc của nền hành chính không giống ai của Việt Nam rất có khả năng như thế! 

Biết rằng có những vấn đề vướng mắc về ranh giới hai địa phương Thừa Thiên Huế với Đà Nẵng (mà có những thời đoạn trước đây căng thẳng, nói như Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương nhiệm “ như tranh chấp lãnh thổ quốc gia”!) nên từ năm 1997, VPCP đã có văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: “Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên Huế chỉ đạo chặt chẽ các ngành chức năng của địa phương và chính quyền các quận huyện giáp ranh không thực hiện những hoạt động làm phức tạp thêm tình hình và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh khu vực này” (Thông báo số 6278/NC/97). Xây dựng khu kinh tế của tỉnh với các đối tác trong nước đã không được, huống hồ giao cho người nước ngoài đầu tư 100% vốn thì có lẽ các vị lãnh đạo tỉnh không nhớ có những văn bản chỉ đạo này của Thủ tướng.

Cần phải nêu lại ở đây một Quyết định khác của Thủ tướng chính phủ: Quyết định gần đây hơn, Quyết định số 2412/QĐ-TTg ngày 19/12/2011 phê duyệt “Quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn cả nước” thì tại khu vực Cửa Khẻm được xác định là “đất địa hình loại 2”. Phàm là lãnh đạo, nhất là những vị phụ trách các lĩnh vực liên quan đến đất đai phải biết nội dung quy định đối với loại đất này. Tư lệnh, Phó tư lệnh và các sĩ quan trung cao cấp trong bộ chỉ huy quân sự tỉnh càng biết rõ nội dung này hơn các công chức dân sự: Có thể sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh nhưng không xây dựng các công trình kiên cố vĩnh cữu. Không được phép đầu tư những dự án “có yếu tố nước ngoài, kể cả Việt kiều” trên loại đất này. Chỉ có yếu tố nước ngoài thôi đã không được thì nói gì đến đầu tư 100% vốn nước ngoài! 

Tôi chưa biết kết luận và đề xuất của Bộ Quốc phòng ra sao, nhưng cách hành xử của lãnh đạo Thừa Thiên Huế không phải đúng mà là rất sai, nếu không nói là đã có phần coi thường kỷ cương phép nước quá mức. Tất nhiên xử lý cách nào cũng có hậu quả nhưng không vì hậu quả về kinh tế mà để lại hậu quả an ninh quốc phòng quá lớn trong suốt 50 năm. Và ai biết trong 50 năm ấy, các ông chủ dự án này còn làm thêm những trò ma thuật nào nữa./. 

Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả

...sáng vác ô đi, tối vác ô về!




Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi



Ăn chơi bài bạc - Ảnh mang tính minh họa

Ăn chơi bài bạc – Ảnh mang tính minh họa




Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam: Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi …Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ đang tiếp tục ngày một phình to? Không phải là do tôi bịa ra hiện thực đó. Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30% công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng trên 800.000 người. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng, để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.
Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor…Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland…
Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (gần 3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng (2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều. Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 10-12 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giá phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 150.000 buổi, với khoảng 900.000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.
Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai họa của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại cồng kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách môi giới chạy chọt dự án. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì mua sắm tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày… Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ thăng tiến theo tuổi tác. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng…đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách…biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.
Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ.

Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?
Tạ Duy Anh
(Rút từ cuốn Làng quê đang biến mất, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa truyền thông Nhã Nam ấn hành tháng 5-2014.)
Tác giả gửi Quechoa với sự cho phép của Nhã Nam