Friday, January 13, 2012

Cái sự hèn và nỗi uất nghẹn của đớn đau…



HÀ VĂN THỊNH

Chưa có năm nào mà mở đầu một năm mới (2012), tính đến hôm nay là 10 ngày (10.1.2012) mà cái đầu và trái tim của người dân Việt bị thử thách nhiều đến như thế, bị giày vò thảm thê đến thế trước những tai ương, những câu chuyện còn hơn cả buồn và những nhức nhối, để dẫu có muốn làm thinh cho khỏi mang tiếng “diễn biến” hay “bị xúi giục” thì vẫn phải mở mồm rên lên, khóc lên cho vợi bớt cái nhục nhã của thân phận làm người…

Đầu tiên là chuyện cháy xe và quan chức cứ sống chết mặc bay cho đến khi báo chí, dư luận la hét vang trời mới đủng đỉnh nhận cho gọi là… có. Tiếp đó là đọc ở đâu, xem cái gì cũng “năm 2020”(!) Nào là đến năm đó có mấy chục ngàn tiến sĩ, nào là lạm phát bằng không, nào là “kiểm soát về cơ bản vệ sinh an toàn thực phẩm”… Hứa lèo cho qua hai nhiệm kỳ thì ai mà không hứa được? Nếu nói rằng đến 2020, không còn thực phẩm thối thì liệu đến ngày đó, sức khỏe giống nòi sẽ ra sao, văn hóa đạo đức suy đồi đến mức nào?… Độc, đau, đắng, đểu là “bốn Đ” xin gửi tặng cho ông LDH và các bộ tứ khác đang tồn tại trên trái đất này, chẳng hạn như 4 biết, 4 chịu, 4 tốt (láng giềng tốt, đồng chí tốt…), 4 vàng (4 nhân 4 thành 16 chữ vàng – Sơn thủy tương liên, vận mệnh tương quan)…

***


Có một câu hỏi tôi luôn nghĩ từ nhiều năm nay nhưng SỢ chẳng dám nói ra bởi biết chắc là sẽ bị ném đá tơi bời – thậm chí là bị vùi cho thân tàn ma dại. Đó là câu hỏi người Việt có anh hùng bất khuất thật hay không? Đành rằng vì không biết nên phải hỏi, nếu có sai thì các bậc thức giả, nhà cầm quyền có lẽ cũng chẳng trách đâu nhưng nỗi sợ nó ngấm vào máu, nó cuộn đắng trong tim nên mới để mãi đến bây giờ. Một trong những danh ngôn mà tôi thích nhất là câu nói của tổng thống bị bại liệt hai chân F. D. Roosevelt nói trong lễ nhậm chức năm 1933: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là bản thân nỗi sợ” (The only thing we have to fear is fear itself). Quả thực, trong mấy ngày qua, không ngày nào tôi không muốn viết nhưng bạn bè – người thân cản ngăn nhiều quá, cho đến lúc này, sau khi đọc thông tin đã tương đối, mới dám cố gắng đặt nỗi sợ sang một bên và… viết.

Trước hết, hãy liếc qua lịch sử Triều Tiên: Điều nhiều người biết nhưng ít người nói là trong suốt 1.117 năm Việt Nam bị Bắc thuộc, người Triều Tiên chỉ bị Trung Quốc đô hộ có vài chục năm – lần thứ nhất từ 108 đến 82 B.C. (thời Hán) và lần thứ hai từ năm 668-676 (thời Đường). Đó là điều đáng để ngẫm suy. Và, cũng nên nhấn mạnh rằng, trong 1.117 năm đau đớn ấy, nhân dân Việt Nam chỉ nổi dậy khởi nghĩa có tất cả 12 lần lớn, nhỏ: Năm 111 B.C. là khởi nghĩa (đầu tiên) của Tây Vu Vương, năm 40-43 là Hai Bà Trưng, khởi nghĩa của Chu Đạt (năm 157), của Bà Triệu (năm 248), của Lý Trường Nhân (468-485), của Lý Bí (542 – 548), của Triệu Quang Phục – Lý Phật Tử (năm 547 – 602), của Lý Tự Kiên và Đinh Kiến (năm 687); của Mai Thúc Loan (năm 722); của Phùng Hưng (766-791), của Dương Thanh (819-820), Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyển (905-938). Như vậy trung bình cứ 92 năm thì khởi nghĩa 1 lần!

Mức độ và “tần số” của những cuộc khởi nghĩa đó nói thẳng, rõ ràng với chúng ta rằng đừng có tôn vinh sự quật cường thái quá bởi không có sự vượt trội so với nhiều dân tộc khác (nếu không muốn nói là chưa bằng) thì không thể luôn luôn huyễn hoặc mình. Tất nhiên, đây là công việc của các cây đa cây đề sử học mà người viết bài này chỉ muốn lướt qua để nói về nỗi đau hiện tại có nguồn cội từ yếu hèn.

Nếu không hèn yếu cớ sao không ít quan tham ngu dốt cứ nói, cứ làm mà hàng triệu người vẫn cúc cung tận tụy trong lặng câm? Nếu không bị ảnh hưởng bởi hơn 1.000 năm với kiếp cúi luồn thì tại sao bây giờ chúng ta (kể cả người viết bài này) lại sống trong sợ hãi: Không dám nói về những điều sai, trong khi cái sự thật cứ rành rành?… Rất và rất nhiều câu hỏi chỉ có một sự trả lời duy nhất – chúng ta không dám sáng tạo (phản biện, chống lại cái ác là sự sáng tạo của tỉnh thức, sự lung linh của trái tim, sự hy vọng của nhân cách), chúng ta khiếp sợ bạo lực, cường quyền nên càng ngày, chúng ta càng lún sâu hơn vào vũng bùn tối tăm của nhận thức, dò dẫm sống, lắt lay tồn tại bằng sự đui mù của tư duy.

Có rất nhiều dẫn chứng nhưng, có lẽ, bài học từ Tiên Lãng là đủ đầy nhất. Tôi xin lấy ví dụ từ chính cái mới nhất và đau nhất này. Một, tại sao người dân, kể cả người có học, lại dễ bị lừa đến thế khi nghe chính quyền (thật ra là quyền lực bị lộng hành bởi vài cá nhân nhân danh chính quyền) rút đơn về để họ dễ bề… cưỡng chế! Chỉ cần biết cái kiến thức tối thiểu rằng đất đai đang tranh chấp thì không thể cưỡng chế như luật pháp đã quy định thì phải hiểu ngay lập tức rằng rút đơn khiếu nại (kiện tụng) về, đồng nghĩa với tự đút đầu vô thòng lọng. Hai, chính quyền của “vua anh” (chủ tịch huyện) cưỡng chế trên đất của “vua em” (chủ tịch xã) là cái loại cơ cấu gì mà không cần học cũng hiểu ngay bản chất của vấn đề. Ba, nhà không thuộc diện bị cưỡng chế, vẫn bị đập tan tành: Phá hoại tài sản công dân trắng trợn như thế mà vẫn nhởn nhơ được sao? Thì ra không cần luật pháp, ưa chi làm nấy là cái thực của xã hội bây giờ sao? Tại sao càn rỡ như thế mà không bị cách chức, đuổi việc ngay lập tức? Bốn, đất đai người ta bỏ cả máu, nước mắt, mồ hôi và tiền của ra để lấn biển, không khen, không ưu đãi thì chớ, lại còn ngang nhiên tịch thu (cướp giật) ngay giữa ban ngày là cái lý nào đây? Năm, cái sai của gia đình ông Vươn là rành rành, luật pháp không thể dung thứ nhưng cái căn nguyên, nguồn cội của sự phẫn uất là lý giải được theo cái nghĩa hẹp nhất của cụm từ bước đường cùng. Lửa và Khói là mối quan hệ nhân quả nhãn tiền. Vậy, ở đây phải làm rõ tội của AI nặng hơn: Kẻ càn rỡ nhân danh luật pháp hay người dân trong phận con giun bị xéo giày tức tưởi?…

Nhiều và rất nhiều nữa những điều phải nói, sẽ nói về chuyện Tiên Lãng. Đây là lúc những người có trách nhiệm phải cẩn trọng vì một tia lửa hay một ngọn lửa chỉ khác nhau về mức độ mà thôi còn thực tế, chúng bao giờ cũng là điểm khởi đầu của đám cháy. Không thể chỉ trừng phạt một phía vì nguyên tắc của công lý là sai đến đâu phải xử ngay đến đấy. Đến đây, chợt thấy buồn nẫu cả ruột gan: Vì lâu nay chúng ta đều “đồng thanh” lặng câm (khuyên bảo nhau lặng im) nên sự càn rỡ ngày càng trắng trợn, vì lâu nay người ta đánh giá sự phản kháng của người dân quá thấp nên cứ việc hành xử bất kể đúng sai. Thật ra, cái tốt nhẫn nhục mới là tội ác ghê gớm hơn cả tội ác từ cái xấu. Martin Luther King đã nói đại ý như thế.

Chúng ta phải đòi công lý thực thi theo đúng lẽ ai sai đến đâu thì phải chịu trách nhiệm đến đó. Đây là nguyên tắc, ít nhất, nó chứng tỏ rằng đôi khi người Việt cũng còn nhớ đến tinh thần bất khuất…

Huế, 13.1.2012

H. V. T.

Theo BVN



____________________________________________________________________



Miệng quan…


NGUYỄN THÔNG

Chỉ trừ cái thời cộng sản nguyên thủy, còn từ chế độ chiếm hữu nô lệ tuốt tận bây giờ, xã hội loài người mặc nhiên hình thành 2 tầng lớp: kẻ thống trị cầm quyền và người bị trị vô quyền. Nói ngắn gọn, đó là quan và dân.

Chả cần giở lại cái thời xa tít mù làm gì, chỉ tính từ hồi những người cộng sản xứ này làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ cũ lập nên chế độ mới, ta thấy tầng lớp quan lại có sự thay đổi nho nhỏ. Họ không dám xưng quan nữa. Họ gọi nhau và bắt dân gọi họ bằng cái tên mới: cán bộ. Dân không phải “bẩm quan” mà “thưa cán bộ”, quan nhỏ với quan lớn cũng không phải “bẩm quan” mà “thưa anh, báo cáo anh”. Nghe rất dân chủ, bình đẳng, gấp cả tỉ lần dân chủ phong kiến.

Ngày xưa muốn vào chốn quan trường phải đi học. Hầu hết học để làm quan. Nay thì không cần thế, chỉ cần thành đồng chí, đứng trong một tổ chức gọi là đảng. Đây là danh từ chung, nhưng ở xứ ta chỉ tồn tại 1 đảng nên đảng phải viết hoa. Đồng chí có thể không thuộc đảng, tuy nhiên hơi hiếm, nếu có cá biệt cũng chỉ mang tính tượng trưng, làm màu mè ra vẻ thôi. Kỳ cục ở chỗ cái gì họ cũng dựa vào dân nhưng với họ dân không được coi là đồng chí. Cũng dễ hiểu, đồng chí đồng nghĩa với ngạch quan, chức tước, phẩm hàm, bổng lộc, coi nhau như đồng chí cả thì lấy đứa nào để cai trị. Ai cho rằng tôi nói quá, xin cứ vặn mấy ông cán bộ tổ chức xem có đúng không. Không phấn đấu vào đảng, không phải đảng viên, đừng có mơ làm cán bộ. Một thứ đặc quyền đặc lợi chỉ có ở xứ này.

Thời phong kiến “thối nát”, quan lại luôn xưng “phụ mẫu chi dân”, cha mẹ của dân. Nơi nào có được vị quan tốt, đúng nghĩa phụ mẫu thì may, còn ngược lại thường phải chấp nhận bởi ách gông đã quàng vào cổ. Phận dân như ngọn cỏ, con kiến, quan dày quan xéo thế nào cũng xong. Chế độ phong kiến đổ là phải, thuận lẽ trời, hợp lòng người.

Theo rao giảng của đảng, cán bộ là đày tớ của dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Cụ Hồ dặn “việc gì có lợi cho dân thì nhỏ mấy cũng phải làm; việc gì có hại cho dân thì lớn mấy cũng không làm”, cụ rèn cán bộ thành công bộc của dân, và ít nhiều đã thành công. Tôi biết cụ thể một ông bác, bố vợ bạn tôi, làm quan to, suốt hồi tại vị không tơ hào cái gì, con cái tự làm tự ăn, khi về hưu chỉ căn nhà nhỏ đồ đạc giản dị như bao gia đình thường dân khác. Mỗi lần thăm cụ, tôi cảm động lắm. Tôi biết, cốt cách tuyệt vời như thế quá hiếm ở xứ này, càng về sau càng hiếm.

Điều nguy hiểm là, mặc dù đảng ra sức kêu gọi cán bộ, đảng viên học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhưng trên thực tế, cán bộ đảng viên ngày càng xa rời quần chúng, đối lập với quần chúng, trong đó có một bộ phận bị quần chúng căm ghét, thành kẻ thù của nhân dân. Dột từ nóc dột xuống. Hỏng từ quan lớn xuống quan bé. Người dân không còn niềm tin ở họ. Chỉ cần giọt nước tràn ly là sự xung đột diễn ra vô phương cứu chữa. Vụ Tiên Lãng là ví dụ điển hình.

Nhiều quan chức huyện Tiên Lãng và thành phố hải Phòng đã hành xử cực kỳ tệ hại, bộc lộ sự thối nát của tầng lớp cán bộ tha hóa, mất nhân cách. Họ tự xem mình như ông trời, dân như bùn đất. Họ cho mình cái quyền muốn làm gì nói gì cũng được. Trong lúc dư luận quần chúng nhân dân phẫn nộ về vụ họ điều hàng trăm bộ đội công an kéo nhau đi cưỡng chế (tôi xin phép sẽ có bài riêng về hai chữ cưỡng chế) nhà dân lành thời điểm trước tết, vô cùng độc ác, vô nhận đạo, thì họ leo lẻo, xoen xoét cái mồm. Sai nhiều thứ lè lè nhưng cố nói lấy được. Tôi nhớ ngay sau khi xảy ra vụ việc, mấy ông quan xã Vinh Quang và quan huyện Tiên Lãng còn vu cho anh Vươn trốn thuế. Họ biết dân tình rất căm ghét hành vi trốn thuế, họ muốn kéo nhân dân vào phe đồng tình với họ. Gớm, có trốn được với mấy ông. Nếu ông Vươn trốn thuế, họ chả trưng ra bằng chứng đầy đường, chạy đằng trời. Làm gì có chuyện nói khơi khơi vậy. Này, tôi bảo cho mấy ông quan biết nhá, các ông là trùm trốn thuế đấy, lương cán bộ ba cọc ba đồng mà ông nào cũng nhà lầu xe hơi, sâm nhung phú quý, chả trốn thuế thì cái gì. Trả lời đi.

Tôi chẳng biết người khác thế nào chứ tôi vô cùng phẫn nộ và buồn khi nghe ông Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng lưỡi không xương quả quyết “anh Vươn không phải người tốt. Nói đúng ra anh Vươn chẳng có công lao gì, cũng chẳng phải là người đi đầu vì sử dụng hàng chục hecta và thu lời nhưng không đóng góp gì cho địa phương. Đặc biệt từ năm 2007 đến nay anh hoàn toàn ăn không. Anh đắp đê để thu lợi cá nhân chứ có ích gì cho xã hội”. Còn ông Chủ tịch huyện Lê Văn Hiền, “mặc dù ngôi nhà này (của ông Đoàn Văn Vươn- NT) không nằm trong diện tích cưỡng chế thu hồi đất theo Quyết định 461/QĐ-UB ngày 7.4.2009 của UBND H.Tiên Lãng, nhưng do ngôi nhà này đã xảy ra vụ tấn công vào lực lượng cưỡng chế, là địa điểm xảy ra việc phạm tội nên cơ quan chức năng của H.Tiên Lãng phải sử dụng biện pháp phá ngôi nhà”. Còn ông Bùi Quang Sản- Giám đốc Sở TN-MT TP.Hải Phòng mặc dù biết rõ mười mươi quyết định giao đất cho ông Vươn ký năm 1997 nhưng cố tình bóp méo, uốn éo miệng lưỡi rắn độc “UBND H.Tiên Lãng giao đất cho ông Vươn là ngày 4.10.1993, tính theo luật Đất đai 1987 nên H.Tiên Lãng giao đất là đúng” (tôi hỏi ông Sản, có phải ông cố tình không biết, còn nếu biết thì tại sao giao đất năm 1997 không dựa vào luật Đất đai sửa đổi năm 1993 đã có hiệu lực mà dựa vào luật năm 1987 làm gì?).

Hỡi các ông quan, đừng tưởng “miệng nhà quan có gang có thép”, giết dân thế nào cũng được. Các ông hại dân tức các ông tự chặt chân ghế mình đấy, tự hại thân nghìn vàng mình đấy.

Ngày xưa dân quá hiểu quan nên họ đúc kết “muốn nói oan làm quan mà nói”, “quan có cần nhưng dân chưa vội, quan có vội quan lội quan sang”, “miệng nhà quan có gang có thép”, và đặc biệt thì “miệng quan trôn trẻ”. Trời ạ, mồm người cầm cân nảy mực như cái lỗ đít đứa trẻ con. Thiết nghĩ chả cần bình luận gì nhiều. Đó là họ nói quan chứ không phải cán bộ, đảng viên. Rất tiếc, thời nay quan hơi bị nhiều, to nhỏ, lớn bé đủ cả. Đến mức trên báo Tuổi Trẻ, mục Thời sự và bình luận ra ngày thứ sáu 13.1, tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa (và báo Tuổi Trẻ) đã gọi thẳng họ là quan với cái tít “đằng sau mỗi chức quan”, phanh phui bao nhiêu tệ hại của tầng lớp thống trị này.

Để tạm kết thúc, tôi xin mượn lời thằng hề chèo mà hồi sinh viên tôi được nghe cụ Hà Văn Cầu giảng. Thằng hề ấy nói thẳng vào mặt quan: Bẩm quan, quan là quan nên quan quàn dân, còn con là dân thì con dần quan!

13.1.2012

Theo blog NT